Bản án 36/2019/HS-ST ngày 25/01/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 36/2019/HS-ST NGÀY 25/01/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 25 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 406/2018/TLST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thanh T, sinh năm 1990 tại tỉnh Bình Định; thường trú: Thôn Ph Qu, xã M Ph, huyện Ph M, tỉnh Bình Định; chỗ ở: Số 60/19 khu phố B Đ 1, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Hữu Nh (đã chết) và bà Võ Thị L (đã chết); bị cáo có 04 anh chị ruột, lớn nhất sinh năm 1973, nhỏ nhất sinh năm 1986; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 31/8/2018 đến ngày 05/9/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

2. Phạm Văn H, sinh năm 1989 tại tỉnh Thái Nguyên; thường trú: Xóm B, xã C V, huyện Đ T, tỉnh Thái Nguyên; chỗ ở: Số 13/3D khu phố B Đ 3, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Bốc xếp; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Phạm Văn V, sinh năm 1961 và bà Trần Thị O, sinh năm 1966; bị cáo có 01 chị ruột, sinh năm 1987; bị cáo có vợ tên là Trần Thị L, sinh năm 1992; bị cáo có 01 con ruột, sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 31/8/2018 đến ngày 05/9/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

3. Đặng Thanh H, sinh năm 1960 tại tỉnh Bình Định; thường trú: Thôn D L T, thị trấn B D, huyện Ph M, tỉnh Bình Định; chỗ ở: chỗ ở: Lô J4, Đại lộ Th Nh, khu công nghiệp S Th 1, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; con ông Phan Văn K, sinh năm 1932 và bà Đặng Thị Ch, sinh năm 1936; bị cáo có vợ tên là Võ Thị H, sinh năm 1960; bị cáo có 04 con ruột, lớn nhất sinh năm 1981, nhỏ nhất sinh năm 1998; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 31/8/2018 đến ngày 05/9/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

4. Huỳnh Vũ L, sinh năm 1993 tại tỉnh Sóc Trăng; thường trú: Ấp Ph Th A, xã M Ph, huyện M T, tỉnh Sóc Trăng; chỗ ở: Khu phố B Đ 1, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Huỳnh Văn B, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị Bé H, sinh năm 1966; bị cáo có 03 chị em ruột, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 1995; bị cáo có vợ tên là Nguyễn Thị Kiều T, sinh năm 1993; bị cáo có 01 con ruột, sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 31/8/2018 đến ngày 05/9/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

5. Phạm Minh Th, sinh năm 1978 tại tỉnh Ninh Thuận; thường trú: Ấp T, xã Th Đ, huyện C M, tỉnh Đồng Nai; chỗ ở: Số 83/11 khu phố M, phường T B, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Phụ xe; trình độ học vấn: 02/12 dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Phạm Minh Ph (đã chết) và bà Trần Thị Th, sinh năm 1946; bị cáo có 07 anh chị em ruột, lớn nhất sinh năm 1969, nhỏ nhất sinh năm 1985; bị cáo có vợ tên là Phạm Thị Ph, sinh năm 1979; bị cáo có 02 con ruột, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 31/8/2018 đến ngày 05/9/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

6. Lê Khắc H, sinh năm 1974 tại tỉnh Bình Định; thường trú: Số 552 đường L D, tổ H, phường Th L, thành phố P, tỉnh Gia Lai; chỗ ở: Lô J4, Đại lộ Th Nh, khu công nghiệp S Th 1, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ học vấn: 10/12 dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Khắc Gi (đã chết) và bà Nguyễn Thị Mỹ Th (đã chết); bị cáo có 05 anh em ruột, lớn nhất sinh năm 1969, nhỏ nhất sinh năm 1975; bị cáo có vợ tên là Nguyễn Hồng L, sinh năm 1987; bị cáo có 01 con ruột, sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 31/8/2018 đến ngày 05/9/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

7. Trần Anh V, sinh năm 1985 tại tỉnh Bình Định; thường trú: Thôn A L Đ 1, thị trấn Ph M, huyện Ph M, tỉnh Bình Định; chỗ ở: Lô J4, Đại lộ Th Nh, khu công nghiệp S Th 1, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Nhân viên; trình độ học vấn: 12/12 dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn S, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1960; bị cáo có 02 chị ruột, lớn sinh năm 1979, nhỏ sinh năm 1983; bị cáo có vợ tên là Đặng Thị Th, sinh năm 1993; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 31/8/2018 đến ngày 05/9/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

8. Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1989 tại tỉnh Bình Định; thường trú: Thôn A Đ, xã Â Ph, huyện H Â, tỉnh Bình Định; chỗ ở: Khu phố Ch L, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Nhân viên; trình độ học vấn: 12/12 dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Ngọc Th, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1968; bị cáo có 01 em ruột, sinh năm 1991; bị cáo có vợ tên là Phan Thị Trúc L, sinh năm 1990; bị cáo có 01 con ruột, sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 31/8/2018 đến ngày 05/9/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

9. Nguyễn Văn L, sinh năm 1989 tại tỉnh Bình Định; thường trú: Xóm MM, thôn Ph H, xã M Đ, huyện Ph M, tinh Bình Định; chỗ ở: Lô J4, Đại lộ Th Nh, khu công nghiệp S Th 1, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12 dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1967 và bà Võ Thị H, sinh năm 1970; bị cáo có 02 em ruột, lớn sinh năm 1991, nhỏ sinh năm 1993; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 31/8/2018 đến ngày 05/9/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

10. Vũ Anh Tr, sinh năm 1985 tại tỉnh Bắc Ninh; thường trú: Thôn B L, xã L H, huyện L T, tỉnh Bắc Ninh; chỗ ở: Lô J4, Đại lộ Th Nh, khu công nghiệp S Th 1, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Nhân viên; trình độ học vấn: 12/12 dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Vũ Anh L, sinh năm 1964 và bà Trần Thị B, sinh năm 1963; bị cáo có 01 anh ruột, sinh năm 1983; bị cáo có vợ tên là Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1983; bị cáo có 01 con ruột, sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 31/8/2018 đến ngày 05/9/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

11. Trần Văn H, sinh năm 1989 tại tỉnh Bình Định; thường trú: Thôn Th S, xã T Th, huyện T S, tỉnh Bình Định; chỗ ở: Lô J4, Đại lộ Th Nh, khu công nghiệp S Th 1, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Nhân viên; trình độ học vấn: 12/12 dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn Kh, sinh năm 1966 và bà Hồ Thị Đ, sinh năm 1967; bị cáo có 02 em ruột, lớn sinh năm 1991, nhỏ sinh năm 1999; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

12. Trần Võ D, sinh năm 1988 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Xóm M, xã Th Đ, huyện Th Ch, tỉnh Nghệ An; chỗ ở: Tổ HL, khu phố Ch L, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 12/12 dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Võ T, sinh năm 1959 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1965; bị cáo có 02 chị em ruột, lớn sinh năm 1986, nhỏ sinh năm 1991; bị cáo có vợ tên là Lê Thị H, sinh năm 1991; bị cáo có 01 con ruột, sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 31/8/2018 đến ngày 05/9/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng: Ông Trần Hồ Đ, sinh năm 1969; thường trú: Số 268/3 đường Ng Mâ, phường Ng M, thành phố Qu Nh, tỉnh Bình Định, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thanh T, Phạm Văn H, Trần Võ, Đặng Thanh H, Huỳnh Vũ L, Phạm Minh Th, Lê Khắc H, Trần Anh V, Nguyễn Ngọc T, Vũ Anh Tr, Nguyễn Văn L và Trần Văn H là công nhân làm cùng công ty H L trong Ga S Th thuộc phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Khoảng 17 giờ ngày 31/8/2018 Nguyễn Thanh T rủ Phạm Văn H, Trần Võ D, Đặng Thanh H, Huỳnh Vũ L, Phạm Minh Th, Lê Khắc H, Trần Anh V, Nguyễn Ngọc T, Vũ Anh Tr, Nguyễn Văn L, Trần Văn H đánh bạc bằng hình thức lắc bầu cua trên máy điện thoại di động thì tất cả đồng ý. Địa điểm đánh bạc tại phòng nghỉ số H công ty H L. Hình thức chơi là sử dụng điện thoại di động Samsung A6 của Trần Anh V mở ứng dụng game “bầu cua 2018” để các con bạc đặt tiền vào con vật với số tiền 10.000 đồng đến 500.000 đồng do Nguyễn Thanh T làm cái. Trong quá trình đánh bạc có một số đối tượng đã nghỉ chơi về trước.

Cả nhóm chơi đến 20 giờ cùng ngày thì bị Công an phường A B phát hiện bắt quả tang thu giữ 1.780.000 đồng trên chiếu bạc và 01 điện thoại Samsung A6 màu đen.

Qua thu thập tài liệu, chứng cứ và kết quả điều tra xác định được Nguyễn Thanh T, Phạm Văn H, Trần Võ D, Đặng Thanh H, Huỳnh Vũ L, Phạm Minh Th, Lê Khắc H, Trần Anh V, Nguyễn Ngọc T, Vũ Anh Tru, Nguyễn Văn L, Trần Văn H có hành vi Đánh bạc, cụ thể như sau:

Nguyễn Thanh T làm cái, mang theo 15.000.000 đồng, sử dụng 5.000.000 đồng để đánh bạc. Quá trình chơi thắng 4.480.000 đồng, khi bị bắt thu giữ trong người 18.000.000 đồng và dưới nền gạch 1.480.000 đồng.

Phạm Văn H mang theo 150.000 đồng và sử dụng 150.000 đồng vào việc đánh bạc. Quá trình thua hết 150.000 đồng.

Trần Võ D mang theo 1.400.000 đồng, sử dụng 200.000 đồng vào việc đánh bạc.

Quá trình chơi thắng 200.000 đồng, khi bị bắt thu giữ trong người 1.600.000 đồng.

Đặng Thanh H mang theo 12.700.000 đồng, sử dụng 700.000 đồng vào việc đánh bạc. Quá trình chơi không thắng không thua, khi bị bắt thu giữ trong người 12.700.000 đồng.

Huỳnh Vũ L mang theo 450.000 đồng, sử dụng 450.000 đồng vào việc đánh bạc.

Quá trình chơi không thắng không thua, khi bị bắt thu giữ trong người 450.000 đồng.

Phạm Minh Th mang theo 400.000 đồng, sử dụng 400.000 đồng vào việc đánh bạc. Quá trình chơi không thắng không thua, khi bị bắt thu giữ trong người 400.000 đồng.

Lê Khắc H mang theo 150.000 đồng, sử dụng 100.000 đồng vào việc đánh bạc.

Quá trình chơi thua hết 100.000 đồng, khi bị bắt thu giữ trong người 50.000 đồng.

Trần Anh V cho Tùng mượn điện thoại di động Samsung A6 để sử dụng đánh bạc, không mang theo tiền, quá trình chơi khi thấy các con bạc đặt tiền vào sòng, V dùng số tiền của họ chuyển qua đặt vào các con vật khác (gọi là “tả”). Quá trình chơi V thắng được 300.000 đồng, khi bị bắt thu giữ trong người số tiền 300.000 đồng.

Vũ Anh Tr mang theo 10.650.000 đồng, sử dụng 550.000 đồng vào việc đánh bạc. Quá trình chơi thắng 500.000 đồng, khi bị bắt thu giữ trong người số tiền 11.150.000 đồng.

Nguyễn Văn L mang theo 5.500.000 đồng, sử dụng 500.000 đồng vào việc đánh bạc. Quá trình chơi thua 500.000 đồng, khi bị bắt thu giữ trong người 5.000.000 đồng.

Trần Văn H mang theo 120.000 đồng, sử dụng 120.000 đồng vào việc đánh bạc. Quá trình chơi thua 10.000 đồng, đến 18 giờ cùng ngày nghỉ đi về nhà không chơi nữa.

Đến ngày 04/9/2018 đến Công an thị xã D A đầu thú, giao nộp số tiền 110.000 đồng.

Tổng số tiền các bị cáo Nguyễn Thanh T, Phạm Văn H, Trần Võ D, Đặng Thanh H, Huỳnh Vũ L, Phạm Minh Th, Lê Khắc H, Trần Anh V, Nguyễn Ngọc T, Vũ Anh Tr, Nguyễn Văn L, Trần Văn H sử dụng để đánh bạc là 13.190.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 14/CT-VKS ngày 24/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T, Phạm Văn H, Trần Võ D, Đặng Thanh H, Huỳnh Vũ L, Phạm Minh Th, Lê Khắc H, Trần Anh V, Nguyễn Ngọc T, Vũ Anh Tr, Nguyễn Văn L và Trần Văn H phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đồng thời đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, nhân thân các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt các bị cáo Nguyễn Thanh T, Phạm Văn H, Trần Võ D, Đặng Thanh H, Huỳnh Vũ L, Phạm Minh Th, Lê Khắc H, Trần Anh V, Nguyễn Ngọc T, Vũ Anh Tr, Nguyễn Văn L từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt các bị cáo Trần Văn H từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung A6 màu đen của bị cáo Trần Anh Vũ sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Đối với 13.190.000 đồng các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Đối với số tiền 10.000.000 đồng của Nguyễn Thanh T, 1.200.000 đồng của Trần Võ D, 12.000.000 đồng của Đặng Thanh H, 50.000 đồng của Lê Khắc H, 8.000.000 đồng của Nguyễn Ngọc T, 10.100.000 đồng của Vũ Anh Tr, 5.000.000 đồng của Nguyễn Văn L không sử dụng vào việc đánh bạc nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương đã trả số tiền trên cho bị cáo Nguyễn Thanh T, Trần Võ D, Đặng Thanh H, Lê Khắc H, Nguyễn Ngọc T, Vũ Anh Tr, Nguyễn Văn L.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt và các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Nguyễn Thanh T, Phạm Văn H, Trần Võ, Đặng Thanh H, Huỳnh Vũ L, Phạm Minh Th, Lê Khắc H, Trần Anh V, Nguyễn Ngọc T, Vũ Anh Tr, Nguyễn Văn L và Trần Văn H là công nhân làm cùng công ty H L trong Ga S Th thuộc phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Khoảng 17 giờ ngày 31/8/2018 Nguyễn Thanh T rủ Phạm Văn H, Trần Võ D, Đặng Thanh H, Huỳnh Vũ L, Phạm Minh Th, Lê Khắc H, Trần Anh V, Nguyễn Ngọc T, Vũ Anh Tr, Nguyễn Văn L, Trần Văn H đánh bạc bằng hình thức lắc bầu cua trên máy điện thoại di động thì tất cả đồng ý. Địa điểm đánh bạc tại phòng nghỉ số H công ty H L. Hình thức chơi là sử dụng điện thoại di động Samsung A6 của Trần Anh V mở ứng dụng game “bầu cua 2018” để các con bạc đặt tiền vào con vật với số tiền 10.000 đồng đến 500.000 đồng do Nguyễn Thanh T làm cái. Trong quá trình đánh bạc có một số đối tượng đã nghỉ chơi về trước.

Cả nhóm chơi đến 20 giờ cùng ngày thì bị Công an phường A B phát hiện bắt quả tang thu giữ 1.780.000 đồng trên chiếu bạc và 01 điện thoại Samsung A6 màu đen.

Qua thu thập tài liệu, chứng cứ và kết quả điều tra xác định được Nguyễn Thanh T, Phạm Văn H, Trần Võ D, Đặng Thanh H, Huỳnh Vũ L, Phạm Minh Th, Lê Khắc H, Trần Anh V, Nguyễn Ngọc T, Vũ Anh Tru, Nguyễn Văn L, Trần Văn H có hành vi Đánh bạc, cụ thể như sau:

Nguyễn Thanh T làm cái, mang theo 15.000.000 đồng, sử dụng 5.000.000 đồng để đánh bạc. Quá trình chơi thắng 4.480.000 đồng, khi bị bắt thu giữ trong người 18.000.000 đồng và dưới nền gạch 1.480.000 đồng.

Phạm Văn H mang theo 150.000 đồng và sử dụng 150.000 đồng vào việc đánh bạc. Quá trình thua hết 150.000 đồng.

Trần Võ D mang theo 1.400.000 đồng, sử dụng 200.000 đồng vào việc đánh bạc.

Quá trình chơi thắng 200.000 đồng, khi bị bắt thu giữ trong người 1.600.000 đồng.

Đặng Thanh H mang theo 12.700.000 đồng, sử dụng 700.000 đồng vào việc đánh bạc. Quá trình chơi không thắng không thua, khi bị bắt thu giữ trong người 12.700.000 đồng.

Huỳnh Vũ L mang theo 450.000 đồng, sử dụng 450.000 đồng vào việc đánh bạc.

Quá trình chơi không thắng không thua, khi bị bắt thu giữ trong người 450.000 đồng.

Phạm Minh Th mang theo 400.000 đồng, sử dụng 400.000 đồng vào việc đánh bạc. Quá trình chơi không thắng không thua, khi bị bắt thu giữ trong người 400.000 đồng.

Lê Khắc H mang theo 150.000 đồng, sử dụng 100.000 đồng vào việc đánh bạc.

Quá trình chơi thua hết 100.000 đồng, khi bị bắt thu giữ trong người 50.000 đồng.

Trần Anh V cho Tùng mượn điện thoại di động Samsung A6 để sử dụng đánh bạc, không mang theo tiền, quá trình chơi khi thấy các con bạc đặt tiền vào sòng, V dùng số tiền của họ chuyển qua đặt vào các con vật khác (gọi là “tả”). Quá trình chơi V thắng được 300.000 đồng, khi bị bắt thu giữ trong người số tiền 300.000 đồng.

Vũ Anh Tr mang theo 10.650.000 đồng, sử dụng 550.000 đồng vào việc đánh bạc. Quá trình chơi thắng 500.000 đồng, khi bị bắt thu giữ trong người số tiền 11.150.000 đồng.

Nguyễn Văn L mang theo 5.500.000 đồng, sử dụng 500.000 đồng vào việc đánh bạc. Quá trình chơi thua 500.000 đồng, khi bị bắt thu giữ trong người 5.000.000 đồng.

Trần Văn H mang theo 120.000 đồng, sử dụng 120.000 đồng vào việc đánh bạc. Quá trình chơi thua 10.000 đồng, đến 18 giờ cùng ngày nghỉ đi về nhà không chơi nữa.

Đến ngày 04/9/2018 đến Công an thị xã D A đầu thú, giao nộp số tiền 110.000 đồng.

Tổng số tiền các bị cáo Nguyễn Thanh T, Phạm Văn H, Trần Võ D, Đặng Thanh H, Huỳnh Vũ L, Phạm Minh Th, Lê Khắc H, Trần Anh V, Nguyễn Ngọc T, Vũ Anh Tr, Nguyễn Văn L, Trần Văn H sử dụng để đánh bạc là 13.190.000 đồng.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Như vậy, hành vi trên đây của các bị cáo Nguyễn Thanh T, Phạm Văn H, Trần Võ D, Đặng Thanh H, Huỳnh Vũ L, Phạm Minh Th, Lê Khắc H, Trần Anh V, Nguyễn Ngọc T, Vũ Anh Tr, Nguyễn Văn L và Trần Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Lời nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ, đã có đủ cơ sở xác định: Hành vi của các bị cáo Nguyễn Thanh T, Phạm Văn H, Trần Võ D, Đặng Thanh H, Huỳnh Vũ L, Phạm Minh Th, Lê Khắc H, Trần Anh V, Nguyễn Ngọc T, Vũ Anh Tr, Nguyễn Văn L, Trần Văn H đánh bạc dưới hình thức lắc bầu cua trên điện thoại di động thắng thua bằng tiền nhằm mục đích tư lợi, sát phạt lẫn nhau là vi phạm pháp luật. Cáo trạng số 14/CT– VKS ngày 24 tháng 12 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh T, Phạm Văn H, Trần Võ D, Đặng Thanh H, Huỳnh Vũ L, Phạm Minh Th, Lê Khắc H, Trần Anh V, Nguyễn Ngọc T, Vũ Anh Tr, Nguyễn Văn L và Trần Văn H về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là ít nghiêm trọng, đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm trật tự công cộng, trật tự xã hội. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được đánh bạc dưới mọi hình thức ăn thua bằng tiền nhằm sát phạt lẫn nhau đều vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc, xem xét tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo đủ để giáo dục cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Đây là vụ án có tính chất đồng phạm nhưng là giản đơn không có sự cấu kết chặt chẽ, không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể khi thực hiện hành vi phạm tội nên không xem là phạm tội có tổ chức. Trong vụ án này bị cáo Nguyễn Thanh T là người làm cái lắc bầu cua, còn các bị cáo còn lại là người trực tiếp đánh bầu cua thắng thua bằng tiền.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo Trần Văn Hòa sau khi phạm tội ra đầu thú về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Về nhân thân: Các bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự và công nhân lao động nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Xét 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung A6 màu đen của bị cáo Trần Anh V sử dụng vào việc phạm tội và 13.190.000 đồng các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

[9] Đối số tiền 10.000.000 đồng của Nguyễn Thanh T, 1.200.000 đồng của Trần Võ D, 12.000.000 đồng của Đặng Thanh H, 50.000 đồng của Lê Khắc H, 8.000.000 đồng của Nguyễn Ngọc T, 10.100.000 đồng của Vũ Anh T, 5.000.000 đồng của Nguyễn Văn L không sử dụng vào việc đánh bạc nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã trả số tiền trên cho bị cáo Nguyễn Thanh T, Trần Võ D, Đặng Thanh H, Lê Khắc H, Nguyễn Ngọc T, Vũ Anh Tr, Nguyễn Văn L là đúng theo quy định của pháp luật.

[10] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đưa ra đối với các bị cáo về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, mức hình phạt, xử lý vật chứng. Xét mức đề nghị hình phạt của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, có cơ sở chấp nhận.

[11] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thanh T, Phạm Văn H, Trần Võ D, Đặng Thanh H, Huỳnh Vũ L, Phạm Minh Th, Lê Khắc H, Trần Anh V, Nguyễn Ngọc T, Vũ Anh Tr, Nguyễn Văn L và Trần Văn H phạm tội “Đánh bạc”.

1.1 Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35, điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 25.000.000 (hai mươi lăm triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Phạm Văn H 22.000.000 (hai mươi hai triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Trần Võ D 22.000.000 (hai mươi hai triệu) đồng..

- Xử phạt bị cáo Đặng Thanh H 22.000.000 (hai mươi hai triệu) đồng..

- Xử phạt bị cáo Huỳnh Vũ L 22.000.000 (hai mươi hai triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Phạm Minh Th 22.000.000 (hai mươi hai triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Lê Khắc H 22.000.000 (hai mươi hai triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Trần Anh V 22.000.000 (hai mươi hai triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T 22.000.000 (hai mươi hai triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Vũ Anh Tr 22.000.000 (hai mươi hai triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 22.000.000 (hai mươi hai triệu) đồng.

1.2 Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Trần Văn H 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung A6 và 13.190.000 (mười ba triệu một trăm chín mươi nghìn) đồng theo biên lai thu tiền số 00982 ngày 24/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/12/2018 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự Dĩ An, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các bị cáo Nguyễn Thanh T, Phạm Văn H, Trần Võ D, Đặng Thanh H, Huỳnh Vũ L, Phạm Minh Th, Lê Khắc H, Trần Anh V, Nguyễn Ngọc T, Vũ Anh Tr, Nguyễn Văn L và Trần Văn H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2019/HS-ST ngày 25/01/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:36/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về