Bản án 37/2017/HNGĐ-ST ngày 31/05/2017 về việc tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 37/2017/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2017 VỀ VIỆC TRANH CHẤP LY HÔN

Vào ngày 31 tháng 5 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 128/2017/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2017 về tranh chấp về ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2017/QĐST-HNGĐ ngày 25/4/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2017/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Đ, sinh năm 1993; Địa chỉ thường trú: Số 662, ấp L, xã P, huyện T, tỉnh Đ; Địa chỉ tạm trú: Số 65/4, đường ĐX 83, khu phố 2, phường Đ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thành C, sinh năm 1992; Địa chỉ thường trú: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang; Địa chỉ tạm trú: Số 38/9, khu phố 1, phường Đ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 27/02/2017 (Bưu điện chuyển đến Tòa án ngày 01/3/2017), được bổ sung ngày 09/3/2017 và trong quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn là chị Lê Thị Đ trình bày:

Chị Lê Thị Đ (gọi tắt là chị Đ) và bị đơn là anh Nguyễn Thành C (gọi tắt là anh C), tự nguyện tìm hiểu và quyết định sống chung từ đầu năm 2015, chị Đ và anh C có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh An Giang, ngày 19/01/2015. Sau khi kết hôn, vợ chồng chuyển đến phường Đ, thành phố Thủ Dầu Một, thuê nhà trọ tạm trú và làm công nhân. Cả hai vợ chồng chỉ thật sự sống hạnh phúc được 06 tháng đầu sau khi kết hôn, từ tháng 7 năm 2015 đến nay, vợ chồng chị Đ, anh C thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, xung đột dẫn đến tự sống ly thân nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn: anh C không quan tâm đến gia đình, vợ con, chỉ biết đến bản thân mình, đam mê đá gà, ăn nhậu xong còn hành hung chị Đ. Chị Đ đã nhiều lần khuyên nhủ anh C bỏ thói hư, tật xấu để đoàn tụ, xây dựng gia đình hạnh phúc nhưng không có kết quả. Hiện tại anh C đã chung sống với người phụ nữ khác ngoài hôn nhân. Từ các nguyên nhân trên, chị Đ yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn anh C. Vợ chồng chưa có con chung, không có tài sản chung nên khi ly hôn, chị Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung, tài sản chung và nợ chung.

Từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử sơ thẩm, Tòa án không thể tống đạt trực tiếp các văn bản Thông báo tham gia tố tụng cho bị đơn Nguyễn Thành C tại nơi cư trú do anh C thường đi vắng trong giờ hành chính. Tòa án đã thực hiện việc tống đạt Thông báo thụ lý, Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo hoãn phiên hòa giải, quyết định xét xử, quyết định hoãn phiên tòa, giấy triệu tập tham gia phiên tòa sơ thẩm cho anh C thông qua hình thức niêm yết tại nơi cư trú, trụ sở Ủy ban nhân dân phường Đ, trụ sở Tòa án nhân dân thành phố hủ Dầu Một theo đúng quy định tại Điều 179 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Anh C không đến Tòa án tham gia tố tụng, cũng không gửi ý kiến bằng văn bản đến Tòa án về việc chấp nhận hay phản đối yêu cầu khởi kiện của chị Đ, bị đơn Nguyễn Thành C cũng không yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn Lê Thị Đ về con chung, tài sản chung, nợ chung. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt anh C.

Tại các biên bản xác minh trình trạng hôn nhân ngày 21/4/2017 tại khu 1, phường Đ, thành phố T, nơi vợ chồng anh C, chị Đ cư trú, sinh sống, được biết mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Đ, anh C đã đến mức trầm trọng, vợ chồng sống ly thân nhau mỗi người một nơi. Nguyên nhân do anh C thường xuyên nhậu nhẹt, la cà, đam mê cá độ, đá gà, cải vã, hành hung vợ và quan hệ với người phụ nữ khác ngoài hôn nhân là có thật.

Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sơ thẩm:

Từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm khai mạc phiên tòa, Thẩm phán, Thư ký và nguyên đơn Lê Thị Đ đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định tại Chương XIV của Bộ luật Tố tụng Dân sự về phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn Lê Thị Đ đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên tòa sơ thẩm. Riêng bị đơn Nguyễn Thành C không đến Tòa án tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, không tham gia phiên tòa sơ thẩm là không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật. Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn Nguyễn Thành C là đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Qua các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được tại hồ sơ vụ án, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một nhận thấy có đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lê Thị Đ. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử cho chị Đ được ly hôn anh C. Các vấn đề khác về con chung, tài sản chung các đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn Nguyễn Thành C (gọi tắt là anh C) có nơi cư trú tại số 38/9, khu phố 1, phường Đ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương theo Sổ đăng ký tạm trú không thời hạn số 080015857, do Công an phường Đ cấp ngày 07/01/2009. Do vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một theo quy định tại khoản 1 Điều 35, khoản 2 Điều 36 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không tống đạt trực tiếp được các Thông báo về tố tụng cho anh C (Thụ lý vụ án, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định xét xử, Giấy triệu tập tham gia phiên tòa, Quyết định hoãn phiên tòa và Giấy triệu tập tham gia phiên tòa lần 2), lý do anh C thường xuyên đi làm ăn trong giờ hành chính. Tòa án đã niêm yết các văn bản tố tụng nói trên cho anh C tại nơi cư trú, Ủy ban nhân dân phường Đ, trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một đúng quy định tại Điều 179 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Anh C không đến Tòa án tham gia tố tụng và cũng không có ý kiến phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lê Thị Đ (gọi tắt là chị Đ), anh C không có yêu cầu phản tố trong vụ án về nuôi con, tài sản chung. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập được tại hồ sơ vụ án Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn Nguyễn Thành C là đúng quy định điểm b Khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đ, anh C sống chung năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh An Giang là hôn nhân hợp pháp đúng quy định về đăng ký kết hôn tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Trong thời gian sống và làm việc tại phường Đ, thành phố Thủ Dầu Một, giữa chị Đ và anh C phát sinh nhiều mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng dẫn đến việc hai người tự chia tay và sống ly thân nhau từ giữa năm 2015 đến nay. Qua xác minh về điều kiện, quan hệ hôn nhân của vợ chồng chị Đ, anh C tại địa phương nơi cư trú, được biết mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Đ, anh C đã đến mức trầm trọng, không thể đoàn tụ, hạnh phúc. Nguyên nhân chính do anh C không quan tâm đến gia đình, đam mê cờ bạc (đá gà), rượu chè, xúc phạm vợ con và còn quan hệ với người phụ nữ khác ngoài hôn nhân. Từ các lý do trên, xét thấy quan hệ vợ chồng giữa anh C, chị Đ đã đến mức trầm trọng, không thể hàn gắn, đoàn tụ nên việc chị Đẹp khởi kiện xin ly hôn anh C là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Chị Đ khai vợ chồng mới cưới nhau, chưa có con chung nên không yêu cầu giải quyết việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Anh C cũng không có yêu cầu phản tố về con chung, cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không đặt ra để xem xét.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa không xem xét.

[6] Lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ, đúng pháp luật. [7] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Lê Thị Đ phải nộp toàn bộ án phí theo quy định tại khon 4 Điều 147 Bộ luật T tụng Dân sự; Điều 6 khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 203, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, khoản 1 Điều 59 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Áp dụng Điều 6 và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Đ xin ly hôn đối với anh Nguyễn Thành C.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Đ và anh Nguyễn Thành C ly hôn. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 08/2015 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 19/01/2015 cho anh Nguyễn Thành C và chị Lê Thị Đ không còn giá trị pháp lý.

1.2. Về con chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết.

1.3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân gia đình thẩm:

Chị Lê Thị Đ phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ hết vào số tiền chị Đ đã nộp tạm ứng án phí trước đây theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0000405 ngày 10/02/2017 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thủ Dầu Một.

3. Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng anh Nguyễn Thành C vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo luật định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2017/HNGĐ-ST ngày 31/05/2017 về việc tranh chấp ly hôn

Số hiệu:37/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/05/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về