Bản án 37/2018/HS-ST ngày 22/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 37/2018/HS-ST NGÀY 22/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 8 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 46/2018/ TLST- HS ngày 24-7-2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 169/2018/QĐXXST-HS ngày 7-8-2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Tấn L, sinh năm 1993, tại Đồng Tháp.

Hộ khẩu thường trú: Tổ 5, khóm T, phường H, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12.

Cha: Nguyễn Ngọc C, sinh năm 1969.

Mẹ: Võ Thị Ngọc L, sinh năm 1968.

Có 02 anh em, bị can là con lớn nhất trong gia đình. Chưa có vợ, con.

Tiền sự, tiền án: Không.

Tạm giữ ngày 19/4/2018.

Tạm giam ngày 25/4/2018.

Hiện bị cáo đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Tấn L sử dụng ma túy từ tháng 02/2018; Vào khoảng 7 giờ 30 phút ngày 19/4/2018 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên L điện thoại cho một người nam (không rõ nhân thân) hỏi mua 300.000 đồng ma túy về sử dụng, hai bên hẹn nhau giao dịch tại cầu Hòa Lợi (thuộc địa phận xã H, thành phố C). Sau đó, L chạy xe môtô biển số 66M1-3590 đến điểm hẹn và làm theo hướng dẫn của người bán ma túy. Lộc đặt 300.000 đồng dưới lan can bên trái cầu, rồi chạy đi lòng vòng 15 phút quay lại nhặt gói thuốc JET mở ra xem bên trong có ma túy, Lộc lấy cất giấu vào túi quần trước bên phải rồi chạy xe về quán nước cô D gần Trường Trung học cơ sở Nguyễn Chí T thuộc tổ 22, khóm T, phường H, thành phố C để uống nước.

Lúc 10 giờ 30 phút cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C phối hợp với Công an phường H kiểm tra, phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Tấn L, tạm giữ trong túi quần trước, bên phải có 01 gói thuốc JET bên trong có 06 điếu thuốc lá và 01 hộp quẹt xanh, phía trước tờ giấy bạc cất giấu 01 bịch nylon màu trắng hàn kín chứa nhiều tinh thể rắn màu trắng, phía sau tờ giấy bạc cất giấu 02 bịch nylon màu trắng hàn kín chứa nhiều tinh thể rắn màu trắng (L khai nhận là ma túy đá). Niêm phong 03 bịch nylon màu trắng hàn kín chứa nhiều tinh thể rắn màu trắng trong phong bì ký hiệu "A1". Trong túi quần trước bên trái có 01 gói thuốc JET bên trong có bộ dụng cụ để sử dụng ma túy đá gồm: 01 ống hút màu cam-trắng, 01 nắp nhựa đỏ khoét 02 lỗ tròn, 01 hộp quẹt trắng bên trên có gắn ống kim loại màu trắng. Trong túi quần sau bên phải có 01 ví da bên trong có 01 cây kéo kim loại màu trắng, 01 đoạn ống hút màu trắng-cam cắt xéo một đầu, tiền cá nhân 800.000 đồng.

Ngoài ra, tạm giữ 01 xe môtô 66M1-3590, số máy VTH152FMH- 5024028 của Nguyễn Tấn L.

Tại Kết luận giám định số 266/KL-KTHS ngày 20/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Tháp, kết luận: Tinh thể rắn chứa trong 03 bịch nylon hàn kín niêm phong trong phong bì ký hiệu "A1" gửi đến giám định đều là chất ma túy Methamphetamine, tổng trọng lượng 0,2471gam.

Xét nghiệm bằng que thử cho kết quả L dương tính với ma túy đá.

Đối với chiếc xe môtô biển số 66M1-3590 là của anh Tăng Hoàng T, ngụ tại ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng cho Nguyễn Tấn L mượn. Xe trên do anh Đào Văn Hoàng E, ngụ ấp 3, xã T, huyện C đứng tên chủ sở hữu, năm 2016 anh E đã bán chiếc xe với giá 500.000 đồng, không làm giấy tờ mua bán và chưa làm thủ tục sang tên. Hiện nay, anh E không tranh chấp quyền sở hữu đối với xe trên. Do anh T không biết L mượn xe sử dụng vào việc đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho anh T quản lý, sử dụng.

Trong quá trình điều tra, L thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như đã nêu trên, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ , kết luận giám định, biên bản xét nghiệm ma túy.

Tại cáo trạng số 50/CT-VKS ngày 24-7-2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh và tại phiên tòa sơ thẩm Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và truy tố bị cáo Nguyễn Tấn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự. Đồng thời phân tích cấu thành tội theo điểm c, khoản 1 Điều 249 cũng như nêu các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Theo đó đề nghị Hội đồng xét xử như sau:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Lộc với mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Bị cáo mua ma túy về sử dụng, không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên không áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự để phạt bổ sung bị cáo.

Về xử lý vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử tuyên như phần quyết định của bản cáo trạng đã nêu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những chứng cứ xác định có tội, cấu thành tội phạm và điều luật áp dụng:

Nguyễn Tấn L là người nghiện ma túy, để có ma túy đá sử dụng thì L mua số lượng lớn tàng trữ trái phép chất ma túy trong người nên vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 19-4-2018, tại tổ 22, khóm T, phường H, thành phố C thì L bị bắt quả tang. Kết luận giám định xác định các chất thu giữ theo biên bản phạm tội quả tang mà bị cáo tàng trữ là ma túy có trọng lượng 0,2471 gam loại Methamphetamine, cùng bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.

Lời khai nhận của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án đủ cấu thành tội phạm quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:...

a)...

c) ..., Methamphetamine, ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;... ”

Do đó, hành vi của bị cáo là có tội và đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm c khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần phải áp dụng cho bị cáo một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có thời gian học tập, cải tạo, trở thành người tốt có ích cho gia đình và xã hội sau này. Đồng thời, cũng để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Theo lời khai bị cáo thì mục đích bị cáo mua ma túy là nhằm mục đích sử dụng nhưng đã tàng trữ trong người số lượng lớn (trên 0,1 gam) nên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; bản thân bị cáo là bộ đội xuất ngũ và gia đình cũng đang gặp nhiều khó khăn nên cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4] Về đề nghị của Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng khác:

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị về tội danh, mức hình phạt, xử lý vật chứng và các vấn đề khác phù hợp với quy định của pháp luật và các tình tiết vụ án nên chấp nhận.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với các vật chứng liên quan đến vụ án là vật cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy như sau: 01 phong bì niêm phong chứa 0,2251gam ma túy còn lại sau giám định, ký hiệu KLGĐ số 266 ngày 20/4/2018; 01 gói thuốc JET bên trong có 06 điếu và 01 hộp quẹt xanh; 01 gói thuốc JET bên trong có bộ dụng cụ để sử dụng ma túy đá gồm: 01 ống hút màu cam-trắng, 01 nắp nhựa đỏ khoét 02 lỗ tròn, 01 hộp quẹt trắng bên trên có gắn ống kim loại màu trắng; 01 cây kéo kim loại màu trắng; 01 đoạn ống hút màu trắng-cam cắt xéo một đầu là những vật cấm và dụng cụ sử dụng ma túy không còn giá trị sử dụng;

- Đối với số tiền thu giữ của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên cần xem xét trả lại cho bị cáo Nguyễn Tấn Lộc 800.000 đồng.

[6] Về án phí:

Buộc bị cáo Nguyễn Tấn L phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Tấn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 19-4-2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì gia đình khó khăn.

Về vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 xử lý như sau:

- Tịch thu tiêu hủy các vật chứng như sau: 01 phong bì niêm phong chứa 0,2251gam ma túy còn lại sau giám định, ký hiệu KLGĐ số 266 ngày 20/4/2018; 01 gói thuốc JET bên trong có 06 điếu và 01 hộp quẹt xanh; 01 gói thuốc JET bên trong có bộ dụng cụ để sử dụng ma túy đá gồm: 01 ống hút màu cam-trắng, 01 nắp nhựa đỏ khoét 02 lỗ tròn, 01 hộp quẹt trắng bên trên có gắn ống kim loại màu trắng; 01 cây kéo kim loại màu trắng; 01 đoạn ống hút màu trắng-cam cắt xéo một đầu là những vật cấm và dụng cụ sử dụng ma túy không còn giá trị sử dụng;

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Tấn L số tiền 800.000 đồng.

Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 về án phí của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Buộc bị cáo Nguyễn Tấn L phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2018/HS-ST ngày 22/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về