Bản án 37/2019/HS-ST ngày 12/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 37/2019/HS-ST NGÀY 12/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 12 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 32/2019/HSST ngày 25 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2018/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Viết T, sinh ngày 02/5/1983 tại Thái Bình. Nơi cư trú: Thôn Đ, xã V, huyện V, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Phạm Viết R và bà Lê Thị C; có vợ: Trần Phương T và 02 con; tiền án, Tiền sự: Không; nhân thân: Quyết định số 60 ngày 11/01/2012 của UBND huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình áp dụng biện pháp đưa người vào Trung tâm Trung tâm Chữa bệnh, Giáo dục, Lao động xã hội tỉnh Thái Bình thời hạn 12 tháng, lý do nghiện ma túy; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/11/2018 đến ngày 26/11/2018 chuyển tạm giam cho đến nay.

* Người chứng kiến:

1. Anh Phạm Quốc T, sinh năm 1975.

Trú tại: Số nhà 08, tổ 60, phường B, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

2. Anh Trần Văn T, sinh năm 1989.

Trú tại: Thôn L, xã V, huyện V, tỉnh Thái Bình.

(Bị cáo có mặt, anh T, anh T đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 23/11/2018, Phạm Viết T đi xe đạp mini từ nhà đến khu vực đường Phan Bá Vành, tổ 38, phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình với mục đích mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến nơi T gặp một người phụ nữ khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ hỏi mua 200.000 đồng được 01 gói ma túy bên ngoài được gói bằng giấy nilon màu đen. T cất gói ma túy trong túi áo ngực bên trái đi tìm chỗ sử dụng. Khi đi đến khu vực đường Phan Bá Vành, tổ 37A, phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình thì tổ công tác của Công an thành phố Thái Bình phát hiện yêu cầu kiểm tra. Trước sự chứng kiến của anh Phạm Quốc T và anh Trần Văn T, T tự giác giao nộp 01 gói ma túy bên ngoài được gói bằng túi nilon màu đen, bên trong được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, có chứa chất bột màu trắng dạng cục T khai nhận đó là Hêrôin mua về để sử dụng. Tổ công tác đã niêm phong trong phong bì thư dán kín, trên mép dán có chữ ký của T và những người chứng kiến. Tổ công tác đã yêu cầu T và mời những người chứng kiến về trụ sở Công an phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình qua kiểm tra không phát hiện thu giữ gì thêm.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi của mình đúng như bản cáo trạng đã miêu tả.

Bản cáo trạng số 23/CT-VKSTPTB ngày 22 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Phạm Viết T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về hình phạt: Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị: Xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù.

* Về xử lý vật chứng: Đề nghị:

- Tịch thu tiêu hủy số hêrôin còn lại sau giám định.

- Trả lại bị cáo chiếc xe đạp mini.

* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp. Bị cáo không khiếu nại hay có ý kiến gì.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được chứng minh bằng:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang

- Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ;

- Bản kết luận giám định số 405/KLGĐ-PC09 ngày 23/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Vật chứng thu giữ của Phạm Viết T, sinh năm 1983, đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn Đ, xã V, huyện V, tỉnh Thái Bình ngày 23/11/2018” gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), khối lượng là 0,1198 gam.

- Biên bản ghi lời khai của người chứng kiến là anh Phạm Quốc T, anh Trần Văn T.

Cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 05 phút ngày 23/11/2018, tại khu vực đường Phan Bá Vành, tổ 37A, phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình, Phạm Viết T có hành vi tàng trữ trái phép trong người 01 gói ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1198 gam với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)..................................................................................................................;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

..........................................................................................................................

[3] Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Bị cáo đã biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu đã 01 lần bị quyết định đưa đi cai nghiện bắt buộc, bị cáo không có tiền án, tiền sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tình tiết này được giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, cần thiết phải xử phạt mức hình phạt nghiêm minh với hành vi phạm tội của bị cáo và phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thu nhập thấp, không ổn định, lượng ma túy tàng trữ ít, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung.

[6] Về vật chứng của vụ án:

- Số Hêrôin còn lại sau giám định là 0,1039 gam trong phong bì niêm phong số 405/KLGĐ – PC 09 ngày 23/11/2018 thu giữ của Phạm Viết T, đây là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- Trả lại bị cáo chiếc xe đạp mini đã cũ.

[7] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua của một người phụ nữ khoảng 40 tuổi không biết tên, địa chỉ nên cơ quan Điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 50; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ Điều 106, Điều 135, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1/ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Viết T phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2/ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Viết T 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 23/11/2018.

3/ Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy số Hêrôin còn lại sau giám định là 0,1039 gam trong phong bì niêm phong số 405/KLGĐ – PC 09 ngày 23/11/2018.

- Trả lại bị cáo chiếc xe đạp mini đã cũ.

(Vật chứng của vụ án Công an thành phố Thái Bình đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình ngày 23/01/2019).

4/ Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5/ Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (12/3/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HS-ST ngày 12/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:37/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về