Bản án 37/2019/HS-ST ngày 21/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 37/2019/HS-ST NGÀY 21/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 5 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 41/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2019, theo Q định đưa vụ án ra xét xử số 44/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Vũ Văn T, sinh năm 1984; Tại: xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Văn M và bà Nguyễn Thị S; Có vợ là Phạm Thị L và có 01 con; Tiền sự: Không; Tiền án: 01: Ngày 15/12/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt 15 tháng tù của bản án số 11/2013/HSST ngày 15/3/2013 về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” của Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Buộc bị cáo phải chấp hành chung của hai bản án là 21 tháng. Ra trại ngày 04/6/2017. Nhân thân: Ngày 10/6/2015 Công an xã Hà Phong, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa xử phạt hành chính với hình thức “Cảnh cáo” về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Bị bắt tạm giữ từ ngày 18/01/2019 đến ngày 27/01/2019 chuyển tạm giam cho đến nay; Có mặt.

Bị hại: Anh Phạm Xuân Q - Sinh năm 1987 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn G, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Văn M - Sinh năm 1991 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào chiều ngày 17/01/2019, Vũ Văn T gặp Nguyễn Văn M tại nhà một người đàn ông có tên là Hoàng V ở khu tập thể Công ty thuốc lá Thanh Hóa, đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 18/01/2019 với mục đích là đi trộm cắp tài sản nên T bảo M “Em có xe không chở anh đi lượn tý”, M trả lời “Có xe em mượn của mẹ đang ở đây”, T lấy chiếc xà cày bằng sắt dài 86 cm và đi ra ngồi sau xe máy của M, M điều khiển xe máy BKS 36B5-586.37 chạy theo hướng QL 217 đi qua xã Hà Đông, xã Hà Lĩnh và lên xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, trên đường đi T nói với M “Anh em mình đi trộm cắp tài sản lấy tiền tiêu” rồi cả hai đi đến thôn Giang Sơn 9, xã Hà Sơn, huyện Hà Trung thì nhìn thấy nhà anh Phạm Xuân Q ở phía bên trái đường có ánh điện sáng và nghe tiếng chó sủa, T bảo M dừng xe cách cổng nhà anh Q khoảng 20m, T đi lại cổng nhà anh Q, nhìn vào trong phát hiện ở gốc cây vải cạnh chuồng gà nhà anh Q có xích một con chó, T vòng qua bờ tường phía nam nhà anh Q rồi trèo qua bờ tường đi đến vị trí cách con chó 10m, sau đó T quay lại chỗ M đang đứng và nói với M “Có con chó đang cột ở gốc cây vải em vào phụ anh bắt mới được”, M đồng ý đi theo T, T đi trước theo đường cũ vào trong vườn tiến sát chỗ xích chó, túm xích cột con chó kéo sát vào người mình rồi ôm nhấc bổng con chó lên khỏi mặt đất, đồng thời dùng tay tháo xích cổ chó, lúc này ông Phạm Xuân Nh (bố đẻ anh Q) phát hiện ra nên đã nói với con trai là Phạm Xuân Th“Có trộm vào nhà”, anh Th xem hình ảnh camera qua điện thoại di động của mình thấy T đang ôm trộm chó nên đã cùng với ông cầm đèn pin chạy qua nhà anh Q, phát hiện bị lộ nên M và T bỏ chạy, M đi sau T nên chạy trước lên xe máy và nổ máy chạy về hướng xã Hà Đông, còn T chạy bộ phía sau được khoản 50m thì bị tổ tuần tra của Cơ quan CSĐT Công an huyện Hà Trung và người dân bắt giữ. Công an thu giữ: 01 Con chó giống đực, lông màu vàng xám, nặng 8,2 kg, 01 xà cày bằng sắt đã cũ dài 86cm, 01 đèn pin màu đỏ trắng đã qua sử dụng.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 23/01/2019 Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Hà Trung định giá chiếc 01 (một) con chó giống đực, lông màu vàng xám, nặng 8,2 kg còn sống có giá trị là 533.000đồng.

Tại bản cáo trạng số 46/CT-VKSHT ngày 19/4/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá đã truy tố Vũ Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b, c khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng: Điểm b, c khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 3 Điều 57; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Vũ Văn T từ 09 tháng đến 12 tháng tù và không áp dụng hình phạt bổ sung là tiền đối với bị cáo.

Bị cáo biết hành vi phạm tội của mình là vi phạm phát luật, nên đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Hà Trung, Điều tra viên; Viện Kiểm sát huyện Hà Trung, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục và thời gian theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Q định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó các hành vi, Q định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Văn T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo với lời khai của bị hại, người liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp; Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào 04 giờ sáng ngày 18/01/2019 tại thôn Giang Sơn 9, xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, Công an huyện Hà Trung bắt quả tang Vũ Văn T trộm cắp 01 con chó giống đực, lông màu vàng xám, trọng lượng 8,2 kg có giá trị thành tiền là 533.000đ (năm trăm ba mươi ba nghìn đồng) của gia đình anh Phạm Xuân Q. Tuy tài sản mà Vũ Văn T trộm cắp có giá trị dưới 2.000.000đ nhưng T đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội mới, mặt khác hành vi trộm cắp của Vũ Văn T đã gây ảnh hưởng xấu đến anh ninh, trật tự, an toàn xã hội. Như vậy hành của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”.

Ðối với Nguyễn Văn M cùng tham gia trộm cắp chó với T, nhưng quá trình điều tra xác định, giá trị tài sản trộm cắp dưới 2.000.000đồng, M chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản; chưa bị kết án về các tội chiếm đoạt nên hành vi của M chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Trung đã có Q định xử phạt hành chính đối với Nguyễn Văn M là hoàn toàn chính xác.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Quyền sở hữu tài sản luôn được pháp luật bảo vệ nhưng T đã không bỏ sức lao động chân chính để có được, lợi dụng ban đêm đã lén lút cùng M trộm cắp 01 con chó để bán lấy tiền tiêu xài. Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nguy hiểm, táo tợn, gây hoang mang tâm lý trong nhân dân. Hành vi trộm cắp chó trên địa bàn huyện Hà Trung hiện nay diễn ra ngày càng nhiều và phức tạp đã gây mất trật tự trị an, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Ban công an một số xã trên địa bàn huyện Hà Trung và một số người dân đã có báo cáo gửi Công an huyện Hà Trung đề nghị xử lý nghiêm M đối với các đối tượng trộm chó trên địa bàn huyện để tạo điều kiện cho người dân yên tâm làm ăn, công tác và phát triển kinh tế, ổn định tình hình trị an trên địa bàn huyện. Nên cần phải được xử lý nghiêm nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4]. Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo đã có tiền án chưa được xóa án tích, nay phạm tội là tình tiết định tội nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng. Nhưng đây thể hiện sự xem thường pháp luật, nên cần xem xét khi quyết định hình phạt.

Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo. Nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật. Việc bắt trộm chó của bị cáo mới ôm chưa mở được móc xích, chưa mang ra khỏi khu vực nhà anh Q thì bị phát hiện nên bị cáo đã bỏ chạy, do vậy bị cáo phạm tội trong hợp phạm tội chưa đạt. Nên cần áp dụng khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự để áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo.

Căn cứ vào hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo cần phải xử cách ly T ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục là cần thiết.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định của pháp luật bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy, bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra xác định con chó là của gia đình anh Phạm Xuân Q, hiện nay anh đã nhận lại và không có yêu cầu đề nghị gì thêm về bồi thường thiệt hại. Nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[7]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với chiếc xe mô tô BKS 36B5-586.37 quá trình điều tra xác định là xe của bà Nguyễn Thị M (mẹ của Nguyễn Văn M), việc M sử dụng chiếc xe này chở T đi trộm cắp tài sản bà M không biết nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Hà Trung đã trả lại chiếc xe cho bà Nguyễn Thị M là hoàn toàn chính xác.

- Đối với 01 xà cày bằng sắt đã cũ dài 86cm và 01 đèn pin màu đỏ trắng đã qua sử dụng. Đây là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội. Hiện nay xét thấy đã cũ không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Điểm b, c khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 3 Điều 57; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn T: 09 (Chín) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ: 18/01/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu huỷ 01 xà cày bằng sắt đã qua sử dụng dài 86cm và 01 đèn pin màu đỏ trắng đã qua sử dụng.

(Hiện đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án huyện Hà Trung theo biên bản giao nhận ngày 20/5/2019).

3. Về án phí: Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, bị cáo Vũ Văn T phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, đối với T kể từ ngày tuyên án, đối với anh M và anh Q kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HS-ST ngày 21/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:37/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về