Bản án 37/2019/HS-ST ngày 31/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 37/2019/HS-ST NGÀY 31/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 38/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Hồng L, sinh năm 1981; trú quán: Thôn Tr, xã Th, thị xã Ph, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hồng C và bà Phạm Thị M; có vợ là Nguyễn Thị T và có 02 con; tiền sự: 01, Quyết định số: 0048086/QĐ-XPHC ngày 08/01/2019 Công an thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, xử phạt 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi trộm cắp tài sản, ngày 15/01/2019 đã chấp hành, tiền án: Không. Nhân thân: Bản án số: 271/2005/HSST ngày 17/6/2005 Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt 08 (tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 (hai mươi) tháng về tội Trộm cắp tài sản; Bản án số: 68/2007/HSST ngày 04/7/2007 Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, xử phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/4/2019, có mặt.

Nguyên đơn dân sự: Ban Quản lý danh thắng Tây Thiên; địa chỉ: Thôn Đồng Thỏng, xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hoàng H, sinh năm 1975; địa chỉ: Xã K, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 07 giờ ngày 13/4/2019, Nguyễn Hồng L đi xe khách từ nhà đến thành phố Vĩnh Yên, sau đó tiếp tục đi taxi lên khu danh thắng Tây Thiên, thôn Đồng Thỏng, xã Đại Đình, huyện Tam Đảo để làm lễ. 11 giờ, L đến Đền Trình, L mua thạch và tiền vàng vào đặt lễ ở ban công đồng, thấy trên mâm ngũ quả có nhiều tờ tiền các loại mệnh giá 50.000đ, 20.000đ, 10.000đ và 100.000đ, L vơ lấy số tiền trên giấu vào túi quần. L tiếp tục đến ban Ngũ Hổ, thấy có các tờ tiền mệnh giá 20.000đ, 10.000đ, 2.000đ và 1.000đ, L lấy số tiền trên giấu vào túi quần sau đó đi mua vé cáp treo lên Đền Thượng. L vào Đền Quốc Mẫu đến ban công đồng, phát hiện trên khay lễ có 02 tờ tiền mệnh giá 100.000đ và 01 tờ tiền mệnh giá 50.000đ, L lấy số tiền trên giấu vào trong túi quần, bà Triệu Thị Tr là nhân viên của Ban Quản lý danh thắng Tây Thiên phát hiện, hô hoán mọi người giữ L và báo Ban Quản lý, Công an huyện Tam Đảo lập biên bản sự việc.

Vật chứng: Thu giữ số tiền 2.174.000đ (Hai triệu một trăm bảy tư nghìn đồng) và 01 đĩa CD.

Quá trình điều tra xác định: Khi đi L đem theo số tiền 1.230.000đ, trả tiền xe 200.000đ, mua lễ 30.000đ, mua vé xe điện và vé cáp treo 260.000đ, còn lại 740.000đ để trong túi quần. Như vậy, tổng số tiền L lấy ở Đền Trình và Đền Quốc Mẫu là 1.434.000đ (2.174.000đ – 740.000đ = 1.434.000đ). Ngày 04/6/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra trả lại số tiền 1.434.000đ cho Ban quản lý danh thắng Tây Thiên.

Tại Bản Cáo trạng số: 41/CT-VKSTĐ ngày 09/7/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố Nguyễn Hồng L về tội Trộm cắp tài sản theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Đề nghị tuyên bố bị cáo Nguyễn Hồng L phạm tội Trộm cắp tài sản; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, phạt: Nguyễn Hồng L từ 09 tháng đến 01 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 13/4/2019).

Bị cáo Nguyễn Hồng L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng truy tố.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa vắng mặt nguyên đơn dân sự nhưng sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xác định tội danh và quyết định hình phạt đối với bị cáo, do đó Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Hồng L thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, thể hiện như sau: Khoảng 11 giờ ngày 13/4/2019, Nguyễn Hồng L đã trộm cắp tiền đặt lễ tại Đền Trình và Đền Quốc Mẫu Tây Thiên là 1.434.000đ (Một triệu bốn trăm ba tư nghìn đồng) giấu vào túi quần thì bị phát hiện và bắt giữ.

[4] Tuy trị giá tài sản trộm cắp dưới 2.000.000đ nhưng Nguyễn Hồng L đã bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản nên hành vi của bị cáo phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó, Bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá....hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a, Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;”...

[5] Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi của bị cáo xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu (đã bị Tòa án đưa ra xét xử về tội Trộm cắp tài sản, Lừa đảo chiếm đoạt tài sản) và có tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản nhưng không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà lao vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt tù thật nghiêm nhằm cách ly bị cáo một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[6] Về tình tiết tăng nặng: Không có [7] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[8] Về áp dụng hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và không có thu nhập nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận ngày 04/6/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra trả lại số tiền 1.434.000đ cho Ban quản lý danh thắng Tây Thiên. Cần trả lại cho bị cáo số tiền 740.000đ do không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[10] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hồng L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hồng L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Hồng L 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 13/4/2019).

3. Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hồng L số tiền 740.000đ (Bảy trăm bốn mươi nghìn đồng) nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án. (Có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/7/2019).

4. Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo Nguyễn Hồng L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Nguyên đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HS-ST ngày 31/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:37/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về