Bản án 38/2018/HNGĐ-ST ngày 07/03/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 38/2018/HNGĐ-ST NGÀY 07/03/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP VỀ NUÔI CON

Ngày 07 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự đã thụ lý số: 407/2017/TLST-HNGĐ ngày 29/11/2017 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 09/02/2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng T, sinh 1982 (có mặt).

Địa chỉ: Số 3, Tr, khu phố 3, phường R, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Anh Trần Vĩnh S, sinh 1983 (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp T B, xã V, huyện T, An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng T trình bày: Chị với anh Trần Vĩnh S chung sống với nhau từ năm 2006, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Thời gian đầu vợ chồng chung sống rất hạnh phúc có một con chung tên Trần Vĩnh Thiên K, sinh ngày 11/9/2008. Nhưng đến năm 2016 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, có nhiều bất đồng về quan điểm sống, nguyên nhân do mỗi người sống một nơi nên tình cảm không còn. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay.

Nay chị xin được ly hôn với anh S. Về quan hệ con chung chị yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản và nợ chung không có, chị không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Trần Vĩnh S: Kể từ khi thụ lý vụ án Tòa án đã thông báo và tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng anh S đã vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện ý kiến đối với yêu cầu của chị T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Bị đơn anh Trần Vĩnh S đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử thấy, có căn cứ áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, xét xử vắng mặt anh S.

[2] Sau khi quen biết, tìm hiểu và có tình cảm với nhau, năm 2006 chị Nguyễn Thị Hồng T với anh Trần Vĩnh S tự nguyện chung sống với nhau được Ủy ban nhân dân phường R, thành phố R, tỉnh Kiên Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn số: 87 ngày 07/7/2009. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 8 và khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[3] Xét yêu cầu của chị Nguyễn Thị Hồng T, thấy: Do đã có tình cảm, yêu thương nhau trước nên sau khi kết hôn vợ chồng chị T và anh S chung sống với nhau hạnh phúc và đã có con chung; tuy nhiên, trong thời gian chung sống có phát sinh mâu thuẫn do có những bất đồng về quan niệm sống, đến năm 2016 anh S bỏ về Long Xuyên làm nghề sửa xe mô tô, từ đó vợ chồng không sống chung với nhau cho nên không còn tình cảm, mâu thuẫn trầm trọng hơn và đã sống ly thân; kể từ khi sống ly thân đến nay chị T với anh S không gặp nhau, không quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ cho nhau. Ngoài lời trình bày của chị T, điều này còn được thể hiện, kể từ khi thụ lý vụ án Tòa án tiến hành thông báo hòa giải nhằm mục đích động viên, hàn gắn nhưng anh S đã vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện nguyện vọng muốn được hàn gắn quan hệ vợ chồng với chị T để xây dựng hạnh phúc gia đình và chăm sóc, giáo dục con chung. Căn cứ Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy, tình nghĩa vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị Hồng T với anh Trần Vĩnh S không còn, tình trạng hôn nhân đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, có đủ căn cứ để áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Hồng T.

 [4] Xét về quan hệ con chung, thấy: Cháu Trần Vĩnh Thiên K, sinh ngày 11/9/2008 được chị Nguyễn Thị Hồng T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục từ khi chị T và anh S ly thân cho đến nay, ngoài ra tại Biên bản lấy lời khai ngày 04/01/2018 cháu Thiên Kim cũng có nguyện vọng được sống chung với chị T, để ổn định cuộc sống và đảm bảo sự phát triển bình thường của cháu Thiên Kim. Hội đồng xét xử thấy, có căn cứ áp dụng Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cháu Trần Vĩnh Thiên K cho chị T tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

 [5] Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chị Nguyễn Thị Hồng T là nguyên đơn nên phải chịu án phí theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 81 và Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Hồng T.

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Hồng T ly hôn với anh Trần Vĩnh S.

Về quan hệ con chung:

- Giao con chung tên Trần Vĩnh Thiên K, sinh ngày 11/9/2008 (hiện đang sống với chị Nguyễn Thị Hồng T) cho chị Nguyễn Thị Hồng T trực tiếp, trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

- Anh Trần Vĩnh S có nghĩa vụ tôn trọng quyền của cháu Trần Vĩnh Thiên K được sống chung với chị T và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, chị T không được cản trở.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Hồng T chịu 300.000 đồng, được trừ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000803 ngày 29/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Chị Nguyễn Thị Hồng T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tuyên án, anh Trần Vĩnh S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện T, tỉnh An Giang để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2018/HNGĐ-ST ngày 07/03/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:38/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về