Bản án 38/2018/HNGĐ-ST ngày 11/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 38/2018/HNGĐ-ST NGÀY 11/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 11 tháng 10 năm 2018 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 107/2018/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2018 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2018/QĐXX-ST ngày 20 tháng 8 năm 2018 và quyết định hoãn phiên tòa số: 25/2018/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Thu H, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Tổ 9, khu 3, phường Q, TP U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt (có đơn xin xử án vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Công C, sinh năm 1981.

Địa chỉ: Tổ 9, khu 3, phường Q, TP U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 22/3/2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại đơn xin xử án vắng mặt nguyên đơn chị Phạm Thị Thu H trình bày:

Chị H và anh Nguyễn Công C tự nguyện kết hôn năm 2012, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) phường Q, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại Tổ 9, khu 3, phường Q, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh.

Trong quá trình chung sống, cuộc sống chung của vợ chồng chỉ hạnh phúc trong khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh C mải chơi, không quan tâm tới vợ con, gia đình, thường xuyên bỏ nhà đi chơi, tụ tập bạn bè, anh C còn cờ bạc, rượu chè dẫn đến nợ nần phải bán nhà là tài sản chung của vợ chồng để trả nợ riêng cho anh. Hiện nay, do không có nhà ở vợ chồng phải đi thuê nhà ở. Sau mỗi lần anh C chơi bời, nợ nần chị H cùng gia đình hai bên có khuyên bảo anh nhưng anh vẫn không thay đổi cách sống. Nên vợ chồng thường xuyên xảy ra xích mích, xô xát ảnh hưởng cuộc sống vợ chồng và con cái. Đến đầu năm 2017, vợ chồng sống ly thân không ai quan tâm tới ai. Nay, chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt nên chị H xin được ly hôn với anh C.

- Về con chung: Có 01 con chung là Nguyễn Trúc L, sinh ngày 03/8/2012. Con chung hiện còn nhỏ và chị H đang chăm sóc, nuôi dưỡng, ly hôn chị H xin được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và khoản nợ chung: không có.

* Đối với bị đơn anh Nguyễn Công C, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng theo quy định pháp luật nhưng bị đơn không đến Tòa do đó không có lời khai, cũng như quan điểm giải quyết vụ án của bị đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố U, tỉnh Quảng Ninh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và người tham gia tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, thu thập chứng cứ xét xử, Thẩm phán, HĐXX đã tuân theo đúng trình tự thủ tục theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại các Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn anh Nguyễn Công C không chấp hành đúng quy định tại các Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thẩm tra tại phiên tòa. Xét thấy việc ly hôn giữa chị Phạm Thị Thu H và anh Nguyễn Công C là tự nguyện, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn và nuôi con chung của chị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng: Theo đơn khởi kiện của chị Phạm Thị Thu H nộp tại Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí và Tòa án đã thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại Điều 28, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn chị Phạm Thị Thu H có đơn xin xử án vắng mặt. Bị đơn anh Nguyễn Công C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt cả nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại các điểm a, b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2] Về nội dung vụ án:

 [2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Thu H và anh Nguyễn Công C kết hôn năm 2012, đăng ký kết hôn hợp pháp tại UBND phường Q, thành phố U, Quảng Ninh. Trên cơ sở tự nguyện nên được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống chị H và anh C thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, anh C không quan tâm đến vợ con, gia đình, mải chơi, cờ bạc, rượu chè dẫn đến nợ nần làm cho cuộc sống chung của vợ chồng ngày càng trở nên trầm trọng.

Tại biên bản xác minh ngày 16/7/2018 do ông Nguyễn Công L là bố đẻ anh Nguyễn Công C cung cấp, có sự xác nhận của UBND phường T, thành phố U, thể hiện: Nguyên nhân mâu thuẫn giữa vợ chồng chị H anh C là do làm ăn thua lỗ, dẫn đến nợ nần, nên tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt, vợ chồng đã sống ly thân mỗi người ở một nơi, không còn quan tâm đến nhau nữa, chỉ thỉnh thoảng anh C mới về nhà. Mỗi lần anh C về nhà ông L đều chuyển các văn bản tố tụng của Tòa án và thông báo nội dung về việc chị H xin ly hôn, nhưng anh C đều không có ý kiến gì. Điều này thể hiện anh C đã không còn quan tâm gì đến gia đình, vợ con nữa, nên mới cố ý không đến Tòa án để trình bày quan điểm về giải quyết vụ án, HĐXX xét thấy việc chị H xin ly hôn anh C là có căn cứ, nên chấp nhận cho chị H được ly hôn với anh C.

 [2.2] Về con chung: Vợ chồng chị H anh C có 01 con chung là Nguyễn Trúc L, sinh ngày 03/8/2012. Chị H đang trực tiếp nuôi dưỡng và có nguyện vọng được nuôi con, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy yêu cầu của chị H là chính đáng và sẽ đảm bảo cho sự phát triển về mọi mặt của con chưa thành niên, nên Hội đồng xét xử giao cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là hoàn toàn phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

 [3] Về tài sản và khoản nợ chung: Chị H xác định không có, không yêu cầu tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [4] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị Thu H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; Điều 35; điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Phạm Thị Thu H đối với anh Nguyễn Công C.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Thu H được ly hôn với anh Nguyễn Công C.

2. Về con chung: Giao cho chị Phạm Thị Thu H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Trúc L, sinh ngày 03/8/2012 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Công C không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền qua lại, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị Thu H phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0000348 ngày 17/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố U, tỉnh Quảng Ninh. Chị H đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị Thu H, anh Nguyễn Công C có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2018/HNGĐ-ST ngày 11/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:38/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về