Bản án 38/2018/HSST ngày 15/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy và mua bán trái phép vũ khí quân dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 38/2018/HSST NGÀY 15/01/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG 
 
Ngày 15 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 38/2017/HSST ngày 07 tháng 12 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2017/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2017 đối với các bị cáo sau đây:
 
1/ Tếnh Tráng P; sinh năm: 1986; nơi cư trú: Bản M, cụm M, huyện X, tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào; nghề nghiệp: giáo viên; trình độ văn hóa: 8/12 (Lào); dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Lào; con ông: Tếnh Lao L và bà: Tếnh Thị N; có vợ: Giàng Thị V và 02 con (con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2017); tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/7/2017 đến nay, có mặt.
 
2/ Tếnh Lao D, tên gọi khác: Tếnh Lao D1; sinh năm: 1987; nơi cư trú: Bản M, cụm M, huyện X, tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào; nghề nghiệp: giáo viên; trình độ văn hóa: 11/12 (Lào); dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Lào; con ông: Tếnh Lao T và bà: Tếnh Thị D; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/7/2017 đến nay, có mặt.
 
3/ Tếnh Lao V; sinh năm: 1990; nơi cư trú: Bản M, cụm M, huyện X, tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào; nghề nghiệp: trồng trọt; trình độ văn hóa: 7/12 (Lào); dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Lào; con ông: Tếnh Lao Ph và bà: Tếnh Thị C; có vợ: Tếnh Thị A và 04 con (con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2016); tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/7/2017 đến nay, có mặt.
 
* Người bào chữa cho các bị cáo: Ông Nguyễn Bá L, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Sơn La, có mặt.
 
* Người phiên dịch
 
- Cho các bị cáo Tếnh Tráng P, Tếnh Lao D: Chị Hà Thị T, sinh năm 1988, nơi công tác: Sở Ngoại vụ tỉnh Sơn La, có mặt.
 
- Cho bị cáo Tếnh Lao V: Anh Giàng A L, sinh năm: 1995, nơi cư trú: Thôn 7, xã Chiềng Mung, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, có mặt.
 
NỘI DUNG VỤ ÁN
 
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
 
Hồi 05 giờ 15 phút ngày 25/7/2017 tại khu vực bản MT, xã P, huyện Y, tổ công tác Công an huyện Y phối hợp với đồn Biên phòng Chiềng Tương đã phát hiện và bắt quả tang Tếnh Lao D, Tếnh Lao V, Tếnh Tráng P đều trú tại cụm M, huyện X, tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào đang có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng trên 02 chiếc xe máy, vật chứng thu giữ: 06 gói nilon màu đen, bên trong mỗi gói chứa 30 túi màu xanh chứa các viên nén màu hồng và màu xanh (nghi là ma túy tổng hợp) và 04 khẩu súng ngắn và 21 viên đạn (D, V, P khai là súng, đạn quân dụng), 02 xe máy, 03 điện thoại di động và một số giấy tờ có liên quan
 
Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã thành lập hội đồng mở niêm phong, cân tịnh, trích mẫu giám định xác định 06 gói nilon bên trong có 180 túi nilon chứa 36.000 viên nén có tổng trọng lượng 3.359,143 gam; kết quả giám định là đều là loại chất Methamphetamin.
 
Ngày 26/7/2017 Cơ quan điều tra Công an huyện Y trưng cầu giám định số súng, đạn đã thu giữ của Tếnh Lao D, Tếnh Tráng P, Tếnh Lao V; kết quả giám định là súng, đạn quân dụng.
 
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Tếnh Lao D, Tếnh Tráng P, Tếnh Lao V khai nhận:
 
Ngày 24/7/2017, Tếnh Tráng P đang ở nhà thì có Tếnh Lao Ch, trú tại: Cụm M, huyện S, tỉnh Hủa Phăn, Lào đến nhà trao đổi việc vận chuyển ma túy, súng sang Việt Nam, P nhận lời. Sau đó, P bảo Chống ở nhà đợi còn P đi sang nhà Tếnh Lao D và gọi điện thoại cho Tếnh Lao V ở cùng bản rủ D, V đến nhà P. Tại nhà P, Chống lấy ra một chiếc túi màu đen bên trong có 06 gói nilon màu đen bên trong có 180 túi hồng phiến và 04 khẩu súng ngắn (trong mỗi khẩu súng đều có đạn), Chống nói với P, D, V đem số ma túy và súng trên sang huyện V, Việt Nam. Khi tới huyện V, Việt Nam thì gọi điện báo cho Chống biết, Chống sẽ gọi điện cho người mua ma túy và súng ra nhận, sau đó nhận tiền của người mua ma túy, súng đem về cho Ch, Ch trả công cho P, D, V 2.000 USD, P, D, V đồng ý. Sau khi giao số ma túy cho P, D, V thì Chống đi về còn P, D, V bàn bạc phân công P, V đi một xe máy đi trước để kiểm tra đường còn D đi xe máy chở ma túy, súng theo sau. P, D, V thống nhất sáng ngày 25/7/2017 sẽ đem ma túy sang Việt Nam. Khoảng 04 giờ sáng 25/7/2017, D đi xe máy chở ma túy, súng sang nhà V, V điều khiển xe máy chở P đi trước kiểm tra đường. Ba người đi qua trạm Biên phòng Kh đến khu vực bản MT, xã P, huyện Y thì bị phát hiện và bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng như đã nêu trên.
 
Về nguồn gốc số ma túy và súng, đạn quân dụng bị thu giữ trong vụ án: Tếnh Lao D, Tếnh Tráng P, Tếnh Lao V khai của Tếnh Lao Ch, trú tại cụm MH, huyện X, tỉnh Hủa Phăn, Lào. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La có công văn gửi Công an tỉnh Hủa Phăn- Lào xác minh, xử lý theo pháp luật của CHDCND Lào.
 
Đối với đối tượng sẽ nhận ma túy và súng ở huyện V, Sơn La: Tếnh Lao D, Tếnh Tráng P, Tếnh Lao V không biết tên tuổi địa chỉ việc giao nhận ma túy, súng do Chống trực tiếp liên lạc với người nhận ma túy và súng, do đó, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra mở rộng vụ án.
 
Tại cáo trạng số 1129/VKS-P1 ngày 30/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố các bị cáo Tếnh Tráng P, Tếnh Lao D, Tếnh Lao V về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo điểm e khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự và tội Mua bán trái phép vũ khí quân dụng theo điểm b, c khoản 2 Điều 230 Bộ luật Hình sự.
 
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:
 
- Áp dụng điểm e khoản 4 Điều 194; điểm b, c khoản 2 Điều 230; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 1999: xử phạt bị cáo Tếnh Tráng P tù Chung thân về tội Mua bán trái phép chất ma túy, 05 đến 06 năm tù về tội Mua bán trái phép vũ khí quân dụng, tổng hợp hình phạt chung của hai tội là tù Chung thân.
 
- Áp dụng điểm e khoản 4 Điều 194; điểm b, c khoản 2 Điều 230; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 53; Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 1999: xử phạt bị cáo Tếnh Lao D 20 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, 05 đến 06 năm tù về tội Mua bán trái phép vũ khí quân dụng, tổng hợp hình phạt chung của hai tội là 25 đến 26 năm tù
 
- Áp dụng điểm e khoản 4 Điều 194; điểm b, c khoản 2 Điều 230; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 53; Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 1999: xử phạt bị cáo Tếnh Lao V 20 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, 05 đến 06 năm tù về tội Mua bán trái phép vũ khí quân dụng, tổng hợp hình phạt chung của hai tội là 25 đến 26 năm tù.
 
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo. Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
 
Ý kiến của Luật sư bào chữa cho các bị cáo: nhất trí với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La. Các bị cáo phạm tội do bị rủ rê, lôi kéo, sau khi bị bắt thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải; gia đình các bị cáo thuộc diện hộ nghèo, gia đình các bị cáo có công với Nhà nước Lào nhưng do điều kiện về địa lý, hiểu biết pháp luật nên gia đình các bị cáo chưa cung cấp cho có quan tố tụng nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tình hữu nghị Việt Lào mở lượng khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo và trả lại xe máy cho gia đình bị cáo P, bị cáo V.
 
Các bị cáo nhận tội và xin giảm nhẹ hình phạt.
 
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
 
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
 
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Y, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bào chữa cho các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
 
[2] Do hám lợi, ngày 25/7/2017 Tếnh Tráng P, Tếnh Lao D, Tếnh Lao V đã cùng nhau thực hiện hành vi vận chuyển trái phép 3.359,143 gam Methamphetamine và 04 khẩu súng quân dụng kèm 21 viên đạn từ Lào sang huyện V, tỉnh Sơn La, Việt Nam để giao rồi nhận tiền từ người đã đặt mua ma túy và súng đạn nhằm mục đích được hưởng tiền công 2.000USD. Trên đường vận chuyển ma túy đi bán hộ đã bị kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang.
 
Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:
 
- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 05 giờ 15 phút ngày 25/7/2017 tại bản Mơ Tươi, xã P, huyện Y, tỉnh Sơn La đối với Tếnh Lao D, Tếnh Tráng P, Tếnh Lao V cùng vật chứng đã thu giữ 06 gói nilon màu đen bên trong mỗi gói màu đen có 30 túi nilon màu xanh, mỗi túi nilon màu xanh chưa 200 viên nén màu hồng, màu xanh và 04 khẩu súng ngắn bên trong đều có đạn (tổng cộng 21 viên đạn).
 
Tại kết luận giám định số 770/KLMT ngày 03/8/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định là chất ma túy, loại chất Methamphetamine, tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 3.359,143 gam, loại chất Methamphetamine.
 
Kết luận giám định số 468/KLGĐ ngày 01/8/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: 04 khẩu súng ngắn, trong đó 01 khẩu loại súng K59 là súng quân dụng và 04 viên đạn sử dụng cho loại súng K59; 01 khẩu loại súng Type77 là súng quân dụng và 07 viên đạn sử dụng cho loại súng Type77; 02 khẩu loại súng CZ45 là súng quân dụng và 10 viên đạn sử dụng cho loại súng CZ45.
 
- Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp các chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ.
 
- Lời khai của anh Lò Văn H, trú tại: bản MT, xã P, huyện Y, tỉnh Sơn La có mặt chứng kiến việc cơ quan điều tra bắt quả tang các bị cáo khi đang có hành vi vận chuyển trái phép ma túy và vũ khí quân dụng.
 
Với các căn cứ chứng minh trên đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo Tếnh Tráng P, Tếnh Lao D, Tếnh Lao V đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy và Mua bán trái phép vũ khí quân dụng, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 194, Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999.
 
[3] Về khung hình phạt áp dụng: Các bị cáo Tếnh Tráng P, Tếnh Lao D, Tếnh Lao V cùng nhau thực hiện hành vi vận chuyển trái phép 3.359,143 gam loại chất Methamphetamine nhằm mục đích bán hộ để được nhận tiền công, vi phạm tình tiết định khung hình “Các chất ma túy khác ở thể rắn có trọng lượng từ 300 gam trở lên” quy định tại điểm e khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, có mức hình phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
 
Hành vi vận chuyển trái phép 04 khẩu súng quân dụng kèm 21 viên đạn quân dụng qua biên giới Lào – Việt Nam nhằm mục đích bán hộ cùng với số ma túy ở trên để được hưởng tiền công, đã vi phạm tình tiết định khung hình phạt “Vật phạm pháp có số lượng lớn” và “Vận chuyển, mua bán qua biên giới” quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999, có mức hình phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
 
Do các bị cáo phạm hai tội nên phải chịu hình phạt chung theo quy định tại Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 1999.
 
[4] Xét về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Hội đồng xét xử thấy rằng đây là vụ án có đồng phạm: Bị cáo Tếnh Tráng P là người khởi xướng, rủ rê, lôi kéo các bị cáo khác và tích cực thực hiện hành vi phạm tội, do đó bị cáo Tếnh Tráng P giữ vai trò chính trong vụ án, cần thiết phải xử phạt bị cáo P hình phạt nghiêm khắc và cao hơn các bị cáo khác trong vụ án. Đối với các bị cáo Tếnh Lao D, Tếnh Lao V tham gia với vai trò đồng phạm, tiếp nhận ý chí của bị cáo Tếnh Tráng P, cùng thực hiện hành vi vận chuyển trái phép ma túy và vũ khí quân dụng với P từ Lào sang Việt Nam để bán hộ, nhằm hưởng tiền công. Do đó, khi lượng hình, cần xem xét áp dụng Điều 53 Bộ luật Hình sự 1999 đối với bị cáo Tếnh Lao D, Tếnh Lao V.
 
[5] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, xâm hại đến trật tự an toàn chung, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước Việt Nam đối với chất ma túy và vũ khí quân dụng, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tai, tệ nạn và các tội phạm khác trong xã hội. Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật Việt Nam, song vì hám lời đã bất chấp pháp luật thực hiện tội phạm. Do đó, cần có hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo nhằm cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung
 
[6] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
 
Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
 
Sau khi bị bắt, tại quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.
 
[7] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, lẽ ra các bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 194 và khoản 5 Điều 230 Bộ luật Hình sự 1999, song xét thấy các bị cáo không có điều kiện thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt ti n) đối với các bị cáo.
 
Các bị cáo là người nước ngoài, phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sau khi các bị cáo chấp hành xong hình phạt chính là phạt tù, cần áp dụng hình phạt bổ sung trục xuất các bị cáo ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo Điều 32 Bộ luật Hình sự năm 1999.
 
[8] Vật chứng vụ án
 
- Đối với 3.240,42 gam loại chất Methamphetamine còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định, xét đây là loại hàng Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy cùng 06 mảnh nilon màu đen, 180 túi nilon màu xanh, 01 túi xách màu đen, 01 hộp giấy hình chữ nhật không còn giá trị sử dụng.
 
- Đối với 01 chiếc điện thoại di động cảm ứng màu trắng thu giữ của bị cáo Tếnh Lao V, có căn cứ xác định là phương tiện bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
 
- Đối với 02 chiếc điện thoại di động thu giữ khi bắt quả tang bị cáo Tếnh Lao V, Tếnh Lao D, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản của các bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
 
- Đối với 01 chiếc xe mô tô hai bánh hiệu Honda Wave RSX màu sơn trắng, xám có BKS 26N1-036.21 kèm 01 giấy đăng ký xe mang tên Tếnh Lao Vờ thu giữ của khi bắt quả tang Tếnh Lao D. Qua điều tra xác định được chiếc xe máy trên thuộc sở hữu của bị cáo Tếnh Tráng P, P đã mua lại của Tếnh Lao Vờ ở xã Chiềng Tương, huyện Y, tỉnh Sơn La (không làm giấy tờ mua bán). Tếnh Tráng P đã đưa xe máy cho Tếnh Lao D để cất giấu và vận chuyển ma túy, vũ khí quân dụng sang Việt Nam bán. Xét thấy, đây là phương tiện các bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
 
- Đối với 01 chiếc mô tô hai bánh hiệu Honda Wave RSX 110 màu sơn đỏ, đen có BKS 26B1-562.04 kèm đăng ký xe mang tên Vì Văn Phấn thu giữ của Tếnh Lao V, Tếnh Tráng P. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định được chiếc xe máy trên thuộc sở hữu của Tếnh Lao V, V đã mua lại người đàn ông Việt Nam ở khu vực Y, Sơn La. Xét thấy, Tếnh Lao V, Tếnh Tráng P đã sử dụng xe máy đi trước xem đường cho Tếnh Lao D vận chuyển ma túy đi sau, do chiếc xe máy là phương triện các bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
 
- Đối với 04 khẩu súng và 21 viên đạn quân dụng cần giao cho Công an tỉnh Sơn La tiếp nhận, quản lý theo thẩm quyền.
 
[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
 
Vì các lẽ trên,
 
QUYẾT ĐỊNH
 
[1] Tuyên bố các bị cáo Tếnh Tráng P, Tếnh Lao D (Tếnh Lao D1), Tếnh Lao V phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy và tội Mua bán trái phép vũ khí quân dụng.
 
- Áp dụng điểm e khoản 4 Điều 194; điểm b, c khoản 2 Điều 230; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 1999: xử phạt bị cáo Tếnh Tráng P tù Chung thân về tội Mua bán trái phép chất ma túy; 05 (năm) năm tù về tội Mua bán trái phép vũ khí quân dụng, tổng hợp hình phạt chung của hai tội là tù Chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 25/7/2017.
 
- Áp dụng điểm e khoản 4 Điều 194; điểm b, c khoản 2 Điều 230; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 53; Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 1999: xử phạt bị cáo Tếnh Lao D (Tếnh Lao D1) 20 (Hai mươi) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; 04 (Bốn) năm tù về tội Mua bán trái phép vũ khí quân dụng, tổng hợp hình phạt chung của hai tội là 24 (Hai mươi bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/7/2017.
 
- Áp dụng điểm e khoản 4 Điều 194; điểm b, c khoản 2 Điều 230; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 53; Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 1999: xử phạt bị cáo Tếnh Lao V 20 (Hai mươi) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; 04 (Bốn) năm tù về tội Mua bán trái phép vũ khí quân dụng, tổng hợp hình phạt chung của hai tội là 24 (Hai mươi bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/7/2017.
 
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt ti n) đối với các bị cáo.
 
Áp dụng Điều 32 Bộ luật Hình sự năm 1999: trục xuất các bị cáo Tếnh Tráng P, Tếnh Lao D (Tếnh Lao D1), Tếnh Lao V ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi các bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.
 
[2] Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
 
- Tịch thu tiêu hủy: 3.240,42 gam loại chất Methamphetamine, 06 mảnh nilon màu đen, 180 túi nilon màu xanh được niêm phong trong một chiếc hộp vật chứng được bọc ngoài bằng giấy trắng; 01 hộp giấy hình chữ nhật kích thước 18 x 9,5 x 5cm, màu trắng, đỏ, ở ba mặt hình hộp có dòng chữ “W&O” và 01 chiếc túi xách màu đen có quai đeo, nhãn hiệu Wolves king, đã cũ.
 
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước:
 
+ 01 chiếc điện thoại di động cảm ứng màu trắng, không có nhãn hiệu, màn hình điện thoại bị vỡ, đã qua sử dụng (thu giữ của Tếnh Lao V).
 
+ 01 chiếc xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, màu sơn trắng, xám có BKS 26N1-036.21, xe có số máy 0077414, số khung 077521, xe không hoạt động được, không có gương, chìa khóa kèm 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Tếnh Lao V, BKS 26N1-036.21, có số 002050 do Công an huyện Y cấp ngày 15/4/2016 (thu giữ của Tếnh Lao D)
 
+ 01 chiếc xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX 110, màu sơn đỏ, đen có BKS 26B1-562.04, xe có số máy 5164105, số khung 698416, xe không hoạt động được, không có gương, chìa khóa kèm 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Vì Văn Ph, BKS BKS 26B1-562.04, có số 062695 do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 08/10/2012 (thu giữ của Tếnh Lao V).
 
- Tạm giữ để đảm bảo thi hành án: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Hphone A117, vỏ màu đỏ, đen (thu của bị cáo Tếnh Lao V) và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Unitel, vỏ màu đen (thu giữ của bị cáo Tếnh Lao D).
 
- Giao cho Công an tỉnh Sơn La tiếp nhận quản lý theo thẩm quyền: 01 khẩu súng ngắn có ký hiệu 6186 kèm 04 viên đạn; 01 khẩu súng ngắn có ký hiệu 1322818 (31677#1322818) kèm theo 07 viên đạn; 01 khẩu súng ngắn ký hiệu B589049 kèm 04 viên đạn; 01 khẩu súng ngắn có ký hiệu B602996 kèm 06 viên đạn.

3/ Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

709
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2018/HSST ngày 15/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy và mua bán trái phép vũ khí quân dụng

Số hiệu:38/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về