Bản án 38/2018/HS-ST ngày 27/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TĨNH, TỈNH  HÀ TĨNH

BẢN ÁN 38/2018/HS-ST NGÀY 27/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 34/2018/TLST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Võ Đức S, sinh ngày 21/11/1986 tại huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn B, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Duy K (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; Có vợ: Nguyễn Thị Thu T1 và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 04/3/2018 đến ngày 09/3/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt

- Người làm chứng: Chị Phạm Thị G; Sinh năm: 1988; Nơi cư trú: Tổ 8, phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh – Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 03/3/2018, Võ Đức S có nhu cầu mua quả thuốc phiện tươi để ngâm rượu sử dụng nên gọi điện thoại cho một người phụ nữ tên O có số thuê bao 0988295806 hỏi mua 07 kg quả thuốc phiện tươi. Người phụ nữ tên O đồng ý bán cho S với giá 800.000đ/kg và hẹn chuyển quả thuốc phiện bằng xe buýt từ thị xã K ra thành phố H vào ngày 04/3/2018. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 04/3/2018, Võ Đức S nhận từ nhân viên xe buýt tuyến thị xã K– thành phố H 01 thùng các tông màu vàng được dán kín tại trạm xe buýt trên đường T (đối diện với bến xe khách H cũ) thuộc phường B, thành phố H và đưa số tiền 5.600.000đ cho nhân viên xe buýt để trả cho người phụ nữ tên O. Đến 10 giờ cùng ngày, S mang thùng các tông trên đi đến quán cà phê Ý Nga thuộc tổ 1 phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh để uống nước chờ bắt xe buýt về huyện H, tỉnh Hà Tĩnh thì bị Tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Hà Tĩnh phối hợp với Công an phường B, thành phố H phát hiện, bắt quả tang, thu giữ tại bị cáo 01 thùng các tông dán kín bên trong có các quả thực vật tươi hình bầu dục và 01 chiếc điện thoại di động OPPO màu vàng.

Tại Bản kết luận giám định số 42/GĐMT-PC54 ngày 05/3/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Các quả thực vật tươi hình bầu dục được chứa trong 01 thùng các tông có khối lượng là 5,4kg là quả thuốc phiện. Thuốc phiện và các chế phẩm từ thuốc phiện nằm trong Danh mục II, STT 117, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Võ Đức S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh.

Bản cáo trạng số 35/CT-VKSTPHT ngày 25/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh truy tố bị cáo Võ Đức S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm e khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Võ Đức S từ 15 đến 21 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung; Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy 5,34 kg quả thuốc phiện (đã trừ mẫu vật giám định) đựng trong 01 thùng các tông; Tịch thu hóa giá nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu vàng đã qua sử dụng của bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo Võ Đức S không có ý kiến tranh luận gì với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày rất hối hận và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hà Tĩnh, Công an thành phố Hà Tĩnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người làm chứng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa như Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong vật chứng, Bản kết luận giám định, Biên bản ghi lời khai của bị cáo, của người làm chứng... Có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 10 giờ ngày 04/3/2018 tại quán cà phê Ý Nga thuộc tổ 1 phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh, khi Võ Đức S đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng thì bị Cơ quan điều tra phát hiện, bắt quả tang, thu giữ cùng tang vật. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, loại ma túy bị cáo tàng trữ là quả thuốc phiện tươi có trọng lượng 5,4 kg. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm e khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhận dân thành phố Hà Tĩnh đã truy tố bị cáo Võ Đức S về tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Bị cáo nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo,  gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên bị cáo được các hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo kinh tế gia đình khó khăn, thuộc hộ cận nghèo nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: 5,34 kilogam quả thuốc phiện (đã trừ mẫu vật giám định) là công cụ, phường tiện dùng vào việc phạm tội, vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu và tiêu hủy;

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu vàng bị cáo sử dụng để gọi điện mua ma túy là công cụ, phương tiện phạm tội. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu hóa giá nộp ngân sách nhà nước.

[6] Xét luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng pháp luật, về mức án cần xem xét xử bị cáo mức án phù hợp.

[7] Đối với người phụ nữ tên O có số điện thoại 0988295806 mà S khai đã bán quả thuốc phiện cho S và nhân viên xe buýt có số điện thoại 0975633680 giao thùng các tông đựng quả thuốc phiện cho S, Cơ quan điều tra đã có văn bản gửi nhà mạng Viettel để yêu cầu tra cứu thông tin chủ thuê bao nhưng chưa có kết quả nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau là phù hợp.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm e khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Võ Đức S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Xử phạt Võ Đức S 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án nhưng trừ cho bị cáo thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 04/3/2018 đến ngày 09/3/2018.

Về xử lý vật chứng: - Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu và tiêu hủy 5,34 kilogam quả thuốc phiện tươi (đã trừ mẫu vật giám định) đựng trong 01 thùng các tông; Tịch thu hóa giá nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu vàng đã qua sử dụng có số imel 865266033929853 của bị cáo Võ Đức Sơn.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm a khoản 1 điều  23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Võ Đức S phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2018/HS-ST ngày 27/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:38/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tĩnh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về