Bản án 38/2018/HSST ngày 29/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 38/2018/HSST NGÀY 29/06/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 6 năm 2018, tại Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 29/2018/HSST ngày 25 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2018/HSST- QĐ ngày 15 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo - Họ và tên: Đào Văn Th (Đào Văn Th, Đào Văn T), sinh ngày 17/9/1991.

Nơi sinh: Xã Th, huyện H, tỉnh Thái Bình.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn C, xã Th, huyện H, tỉnh Thái Bình. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo. Văn hoá: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Bố: Đào Văn T, sinh năm 1962.  Mẹ: Trần Thị Nh, sinh năm 1966.

Gia đình có 15 anh chị em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình.

Nhân thân: Năm 2009 tham gia nghĩa vụ quân sự đến năm 2011 xuất ngũ về địa phương. Ngày 25/01/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và trốn khỏi nơi giam giữ theo bản án số 03/2013/HSST.

- Tiền án, tiền sự: Không. (Bị cáo được trích xuất, có mặt tạiPhên tòa).

+ Người bị hại:

- Anh Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1983. Trú tại: Thôn T, xã N, huyện H, tỉnh Thái Bình.

- Anh Đào Văn Ch, sinh năm 1974.

Trú tại: Thôn Đ, xã M, huyện H, tỉnh Thái Bình.

+ Người liên quan: Anh Vũ Văn C, sinh năm 1977. Trú tại: Thôn L, xã N, huyện H, tỉnh Thái Bình.

+ Người làm chứng:

- Anh Mai Xuân D, sinh năm 1966.

Trú tại: Thôn Q, xã Th, huyện H, tỉnh Thái Bình.

- Chị Đinh Thị M, sinh năm 1961.

Trú tại: Thôn V, xã Tr, huyện H, tỉnh Thái Bình.

- Anh Vũ Văn H, sinh năm 1982.

Trú tại: Thôn L, xã N, huyện H, tỉnh Thái Bình.

(Tại phiên tòa có mặt anh Ph, vắng mặt anh C, anh Ch, anh D, chị M, anh H).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tạiPhên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21h00’ ngày 16/9/2017, Đặng Văn L đến nhà Đào Văn Th chơi và rủ nhau đi trộm cắp tài sản. Th lấy hai chiếc bao xác rắn của gia đình kẹp vào yên xe rồi lấy xe máy Dream, không biển kiểm soát của Th cùng L đi. Đến khoảng 23h cùng ngày Th và L đi đến đoạn đê giáp danh giữa ngã ba xã N, C, Th, lúc này khoảng 1h ngày 17/9/2017, L và Th giấu xe máy của Th dưới chân đê rồi đi bộ về phía cảng cá xã  Th. Khi đi đến khu vực nhà ông Mai Xuân D quan sát thấy xung quanh không có ai, Th trèo qua dậu nhà ông D vào trong còn L ngồi ngoài cảnh giới. Th bảo L đi ra đầu cảng đứng đợi, khoảng 30 phút Th lấy trộm được chiếc xe máy nhãn hiệu Ware α màu xanh, biển kiểm soát  17L4 - 0986, trong cốp xe có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J2 của anh Đào Văn Ch gửi xe ở nhà ông D. Th dắt xe ra chỗ L và bảo đứng đợi để Th vào nhà ông D lấy trộm thêm chiếc xe máy nữa. L đồng ý, đứng chờ khoảng 10 phút thì Th lấy trộm được chiếc xe máy nhãn hiệu Sirius màu trắng, biển kiểm soát 17B1 - 69555 của anh Nguyễn Văn Ph. Th tháo gương chiếc xe máy Sirius vứt xuống sông rồi Lâm và Th mỗi người đi một xe máy về nhà Th dấu xe. Th gọi điện cho Trương Văn Th hỏi Th có mua xe không. Th và L đi hai chiếc xe vừa trộm cắp được vào nhà Thuyên. Th và L tháo giá đỡ sắt giữa của hai xe, tháo móc treo đồ, lột tem của chiếc xe Sirius màu trắng và tháo biển kiểm soát của chiếc xe Ware α. Biết hai chiếc xe trên do L và Th trộm cắp nhưng thấy xe còn tốt nên Thuyên hỏi Th và L mua chiếc xe Sirius màu trắng. Th và L đồng ý bán cho Th với giá 3.500.000đồng. Th đi chiếc xe Sirius vào nhà ông Trương Văn T vay được 3.000.000đồng. Th gửi xe máy lại nhà ông Tâm rồi mang tiền ra đưa cho L. Th mang chiếc xe Wareα đi gửi sau đó quay lại cùng một thanh niên tên là Ng đi chiếc xe Ware màu trắng. L đưa cho Th 2.900.000đồng, còn 100.000đồng L dùng mua thuốc lá. Chiếc  xe Sirius màu trắng Thuyên đã bán cho anhC lấy 3.500.000đồng, trả vợ chồng ông T 3.000.000đồng, còn 500.000đồng Th sử dụng chi tiêu cá nhân.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như sau: Khoảng 01h ngày 17/9/2017 tại nhà ông Mai Xuân D, Đào Văn Th cùng với Đặng Văn L trộm cắp 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Sirius màu trắng, biển kiểm soát 17B1- 69555 và 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Wareα màu xanh, biển kiểm soát 17L4 - 0986, trong cốp xe có một chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung J2 màu trắng. Trương Văn Th biết hai chiếc xe trên do Lâm và Th phạm tội mà có nhưng Th vẫn mua chiếc xe máy nhãn hiệu Sirius màu trắng, biển kiểm soát 17B1- 69555 với giá 3.500.000đồng.

Bản cáo trạng số 36/KSĐT ngày 24/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình truy tố: Bị cáo Đào Văn Th về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự.

* Tại Phên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 50; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo từ năm đến 18 đến 21 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Về trách nhiệm dân sự:

- Buộc Đặng Văn L phải bồi thường cho anh Đào Văn Ch số tiền trị giá chiếc xe máy và chiếc điện thoại J2 mà Đặng Văn L và Đào Văn Th đã trộm cắp là 10.160.000đồng. Đặng Văn Lâm có quyền yêu cầu Đào Văn Th thanh toán lại số tiền đã bỏ ra bồi thường thay cho Đào Văn Th. Tại Phiên tòa bị cáo Đào Văn Th tự nguyện thanh toán lại toàn bộ số tiền 10.160.000đồng cho Đặng Văn L bị buộc phải bồi thường cho anh Đào Văn Ch.

- Anh Nguyễn Văn Ph đã nhận lại được tài sản bị trộm cắp, tại phiên tòa anh Ph yêu cầu bị cáo Đào Văn Th và Đặng Văn L phải bồi thường thêm số tiền chi phí sửa xe, đi lại làm biển số xe, thay gương, dán nhãn mác xe chi phí hết 2.000.000đồng. Bị cáo Đào Văn Th chấp nhận và tự nguyện bồi thường thay cả cho Đặng Văn L tổng là 2.000.000đồng.

*  Về xử  lý vật chứng:  Đã giải quyết  tại  bản  án  số  04/2018/HSST ngày 24/01/2018.

Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Đào Văn Th và anh Nguyễn Văn Ph không có ý kiến tranh luận gì.

Lời nói  sau cùng: Bị cáo Đào Văn Th đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tạiPhên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục nên là các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp. Bị cáo, những người bị hại, người liên quan không khiếu nại hay có ý kiến gì.

[2] Về căn cứ kết tội đối với các bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại Phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan, người làm chứng và được chứng minh bằng:

- Đơn trình báo và lời khai của những người bị hại là anh Nguyễn Văn Ph và anh Đào Văn Ch.

- Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Hội đồng định giá tài sản huyện Tiền Hải ngày 18/9/2017, kết luận: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Wareα, biển kiểm soát 17L4 - 0986 giá trị hiện tại 8.000.000 đồng; 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Sirius, biển kiểm soát 17B1 - 69555 giá trị hiện tại 10.500.000 đồng và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung J2 màu trắng trị giá 2.160.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 20.660.000 đồng.

- Các biên bản quản lý vật chứng; sơ đồ hiện trường và biên bản khám nghiệm hiện trường do Công an huyện Tiền Hải lập hồi 9h30 ngày 17/9/2017, hồi 11h35, 16h40 cùng ngày 18/9/2017.

- Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Vũ Văn C.

- Lời khai của những người làm chứng là ông Mai Xuân D, bà Đinh Thị M và anh Vũ Văn H.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 01h ngày 17/9/2017 Đào Văn Th cùng với Đặng Văn L vào nhà ông Mai Xuân D ở thôn Q, xã Th, huyện H trộm cắp 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Sirius màu trắng, biển kiểm soát 17B1- 69555 của anh Nguyễn Văn Ph và 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Wareα màu xanh, biển kiểm soát 17L4 - 0986, trong cốp xe có một chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung J2 màu trắng của anh Đào Văn Ch. Tổng giá trị tài sản Th và L trộm cắp là 20.660.000 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Đào Văn Th đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Từ ngày 01/01/2018 Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, do chuyển biến pháp luật nên hành vi của Đào Văn Th đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.

[3] Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được Pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an ninh tại địa phương, thể hiện sự liều lĩnh, ý thức coi thường pháp luật, vì vậy cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, như vậy mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:  Bị cáo Đào Văn Th là người có nhân thân xấu: Ngày 25/01/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và trốn khỏi nơi giam giữ theo bản án số 03/2013/HSST. Bị cáo đã chấp hành xong các quyết định khác của bản án ngày 25/7/2013 và chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/11/2014. Do chuyển biến của pháp luật, căn cứ Điều 70 của Bộ luật hình sự năm 2015 bản án này bị cáo đã được xóa án tích. Do vậy, lần phạm tội này bị cáo không bị xác định là phạm tội thuộc trường hợp tái phạm.

Trong quá trình điều tra và tạiPhên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hốiC và năm 2009 đến năm 2011 tham gia nghĩa vụ quân sự các tình tiết này được giảm nhẹ theo quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụngC tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

- Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập thấp nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. [6] Về trách nhiệm dân sự:

- Buộc Đặng Văn L phải bồi thường cho anh Đào Văn Ch số tiền trị giá chiếc xe máy và chiếc điện thoại J2 mà Đặng Văn L và Đào Văn Th đã trộm cắp là 10.160.000đồng. Đặng Văn L có quyền yêu cầu Đào Văn Th thanh toán lại số tiền đã bỏ ra bồi thường thay cho Đào Văn Th. Tại phiên tòa bị cáo Đào Văn Th tự nguyện thanh toán lại toàn bộ số tiền 10.160.000đồng cho Đặng Văn L bị buộc phải bồi thường cho anh Đào Văn Ch.

- Anh Nguyễn Văn Ph đã nhận lại được tài sản bị trộm cắp, tại Phiên tòa anh Ph yêu cầu bị cáo Đào Văn Th và Đặng Văn L phải bồi thường thêm số tiền chi phí sửa xe, đi lại làm biển số xe, thay gương, dán nhãn mác xe chi phí hết 2.000.000đồng. Bị cáo Đào Văn Th chấp nhận và tự nguyện bồi thường thay cả cho Đặng Văn L tổng là 2.000.000đồng.

[7] Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết tại Bản án số 04/2018/HSST ngày 24/01/2018 của Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải. [8] Về các vấn đề khác trong vụ án:

Bị cáo Đào Văn Th khai Hoàng Văn Ng là người cho Th gửi chiếc xe Wareα màu xanh và bán hộ được 2.000.000đồng. Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã nhiều lần triệu tập, xác minh nhưng Ng hiện không có mặt tại địa phương nên cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện đã tách ra để tiếp tục xác minh, làm rõ hành vi của Ng để xử lý sau. Đào Văn Th khai Th và L sử dụng chiếc xe đi trộm cắp tài là máy loại xe Dream màu mận chín của ông Đòa Văn T là bố đẻ Th. Khi Th và L lấy chiếc xe trên đi trộm cắp ông T không biết. Quá trình điều tra cơ quan Điều tra đã nhiều lần đến làm việc nhưng ông T không hợp tác. Cơ quan Điều tra chưa quản lý được chiếc xe trên nên không có cơ sở để xử lý đối với chiếc xe máy trên.

Đối với Đặng Văn L là người đã cùng Th trộm cắp tài sản và Trương Văn Th là người đã mua chiếc xe máy doTh và L trộm cắp. Ngày 24/01/2018 Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải đã xét xử, tuyên phạt Đặng Văn L 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Trương Văn Th 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà” có nên không phải xử lý trong vụ án này.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tội danh - Tuyên bố: Bị cáo Đào Văn Th phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

2. Hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s, khoản 1, 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đào Văn Th  01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/3/2018.

3. Trách nhiệm dân sự: Chấp nhận sự tự nguyện của bị cáo Đào Văn Th thanh toán lại toàn bộ số tiền 10.160.000đồng cho Đặng Văn Lâm bị buộc phải bồi thường cho người bị hại là anh Đào Văn Ch và tự nguyện bồi thường thêm cho người bị hại là anh Nguyễn Văn Ph thay cả cho Đặng Văn L số tiền là 2.000.000đồng.

4. Xử lý vật chứng: Đã giải quyết tại bản án số 04/2018/HSST ngày 24/01/2018.

5.Án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đồng án phí dân sự.

Bị cáo, người bị hại có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 29/6/2018. Người liên quan, người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2018/HSST ngày 29/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:38/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về