Bản án 38/2019/DS-ST ngày 28/05/2019 về tranh chấp hợp đồng dân sự mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẤP VÒ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 38/2019/DS-ST NGÀY 28/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ MUA BÁN TÀI SẢN

Trong ngày 28 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 27/2019/TLST-DS ngày 16 tháng 01 năm 2019 về “Tranh chấp về Hợp đồng dân sự mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2019/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 39/2019/QĐST-DS ngày 08/5/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Hà Văn Thanh E, sinh năm 1985 là Chủ doanh nghiệp tư nhân N; địa chỉ: Số 174, ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đ. (Có mặt)

2. Bị đơn: Ông Trương Văn Chưởng H (Tên thường gọi là K), sinh năm 1982. Địa chỉ: Số 657, ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đ. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện và tại bản trình bày ý kiến cũng như tại phiên tòa anh E trình bày: Từ ngày 10/01/2017 ông H có đến cửa hàng vật tư nông nghiệp của ông E để mua vật tư nông nghiệp, tính đến ngày 10/01/2017, ông H nợ của ông E là 22.312.000 đồng. Việc mua bán chỉ ghi tên hàng và số tiền vào sổ để theo dõi chứ không làm biên nhận. Nay ông E yêu cầu ông H trả số tiền mua vật tư nông nghiệp còn nợ là 22.312.000 đồng và tiền lãi tính từ 01/10/2017 (là ngày chốt số nợ sau cùng) mức lãi suất là 1%/tháng đến nay là 4.016.000 đồng. Tổng cộng là 26.536.000 đồng.

- Ông H mặc dù được Tòa án tống đạt hợp lệ, có trực tiếp nhận thông báo của Tòa án nhưng không đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Anh H đang cư trú tại ấp A, xã Đ, huyện L, Đồng Tháp nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, quy định tại Điều 26, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh H được triệu tập hợp lệ phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh H theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Anh H có mua vật tư nông nghiệp của anh E và còn nợ anh E số tiền 22.312.000 đồng. Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của anh E là sổ mua hàng, chứng cứ này anh H được Tòa án thông báo và giao nhận, anh H trực tiếp nhận nhưng không ý kiến gì. Do đó, chứng cứ anh E đưa ra được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với số tiền lãi, do anh H chậm thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên phải có nghĩa vụ trả lãi cho anh E là phù hợp. Mức lãi suất anh E yêu cầu là 1%/tháng, tính lãi từ ngày chốt nợ sua cùng là 01/10/2017 là phù hợp nên được chấp nhận.

Tại Điều 430, 440, 357, 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Điều 430. Hợp đồng mua bán tài sản Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán.

Hợp đồng mua bán nhà ở, mua bán nhà để sử dụng vào mục đích khác được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật nhà ở và luật khác có liên quan.” “Điều 440. Nghĩa vụ trả tiền 1. Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền theo thời hạn, địa điểm và mức tiền được quy định trong hợp đồng.

2. Trường hợp các bên chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao tài sản thì thời hạn thanh toán tiền cũng được xác định tương ứng với thời hạn giao tài sản. Nếu các bên không có thỏa thuận về thời hạn giao tài sản và thời hạn thanh toán tiền thì bên mua phải thanh toán tiền tại thời điểm nhận tài sản.

3. Trường hợp bên mua không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền thì phải trả lãi trên số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật này.” “Điều 357. Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền 1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này.” “Điều 468. Lãi suất

1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

2. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.” Từ nhận định và điều luật viện dẫn trên, xét thấy yêu cầu của anh E chấp nhận toàn bộ yêu cầu của anh E đối với anh H là có căn cứ.

[3] Về án phí: Anh H bị buộc nghĩa vụ trả nợ nên phải nộp án phí sơ thẩm dân sự theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 357, Điều 430, Điều 440, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của anh Hà Văn Thanh E.

2. Buộc anh Trương Văn Chưởng H có nghĩa vụ trả cho anh Hà Văn Thanh E số tiền còn nợ trong hợp đồng mua bán vật tư nông nghiệp tiền vốn là 22.312.000 đồng (Hai mươi hai triệu ba trăm mười hai nghìn đồng) và tiền lãi là 4.016.000 đồng (Bốn triệu không trăm mười sáu nghìn đồng). Tổng cộng là 26.536.000 đồng (Hai mươi sáu triệu năm trăm ba mươi sáu nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3. Về án phí: Buộc anh Trương Văn Chưởng H phải nộp 1.326.800 đồng (Một triệu ba trăm hai mươi sáu nghìn tám trăm đồng) án phí sơ thẩm dân sự.

Anh Hà Văn Thanh E nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 653.000 đồng (Sáu trăm năm mươi ba nghìn đồng) theo biên lai số 0006978 ngày 15/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lấp Vò.

4. Án xử công khai, đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2019/DS-ST ngày 28/05/2019 về tranh chấp hợp đồng dân sự mua bán tài sản

Số hiệu:38/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lấp Vò - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về