Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 23/08/2019 về ly hôn, nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THUỶ, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 39/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2019 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 23 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giao Thủy xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 85/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2019 về việc “Ly hôn, nuôi con chung”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2019/QĐXX-ST ngày 19 tháng 7 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2019QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1988

Nơi ĐKHKTT: Đội 2, Nh, xã G, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.

Chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố L, thị trấn Q, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.

Bị đơn: Anh Vũ Văn B; sinh năm 1985.

Địa chỉ: Đội 2 Nh, xã G, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.

Tại phiên tòa: có mặt chị H, anh B vắng mặt lần 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 23/4/2019, bản tự khai ngày 21/5/2019 và tại phiên tòa chị Phạm Thị H nguyên đơn trong vụ án trình bày: Chị và anh Vũ Văn B tự nguyện tìm hiểu, được UBND xã G cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 18/7/2012. Sau ngày cưới vợ chồng sống hạnh phúc được ba năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn do anh B không quan tâm đến gia đình, không làm tròn trách nhiệm của một người chồng và người bố, đến năm 2013 thì vợ chồng sống ly thân. Nay chị xác định vợ chồng không còn tình cảm yêu thương và không thể chung sống với nhau được nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Vũ Văn B.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Vũ Như Ng, sinh ngày 01/10/2012 vợ chồng ly hôn nguyện vọng của chị là nhận nuôi con đến tuổi trưởng thành lao động tự lập được và không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản riêng, tài sản chung, công nợ và ruộng nhận khoán hợp tác xã, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản làm việc với cơ sở xóm nơi anh B và chị H cư trú đã cung cấp: Cơ sở xóm không rõ nguyên nhân gì dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng. Chị H đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở thị trấn Q sinh sống. Nếu Tòa án giải quyết cho chị H ly hôn anh B, nên giao con chung cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng vì anh B thường xuyên vắng nhà công việc không ổn định.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56,81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Xử ly hôn giữa chị Phạm Thị H và anh Vũ Văn B.

Về con chung: Giao chị H trực tiếp nuôi con chung là Vũ Như Ng, sinh ngày 01/10/2012, anh B không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chị H không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Xét thấy nội dung nguyên đơn chị Phạm Thị H yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ hôn nhân, về nuôi con chung đối với anh Vũ Văn B; Địa chỉ nơi cư trú: Đội 2 Nh, xã G, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; Căn cứ vào Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy. Anh Vũ Văn B (là bị đơn) đã được tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Vũ Văn B.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị H và anh Vũ Văn B tự nguyện tìm hiểu, được UBND xã G, huyện Giao Thủy cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 18/7/2012 là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau ngày cưới, vợ chồng chung sống thực sự hạnh phúc được ba năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do anh B không quan tâm chăm lo cho gia đình.Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2013 đến nay, không còn quan tâm đến nhau nữa.

Nay chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh B. Trong quá trình giải quyết vụ án anh B đã nhận được đầy đủ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng vẫn không có mặt tại tòa án để giải quyết càng thể hiện anh B không thiết tha đoàn tụ gia đình.

Xét thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh B đã thực sự trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy chấp nhận nguyện vọng của chị H xin ly hôn anh B là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Vũ Như Ng sinh ngày 01/10/2012. Chị H có nguyện vọng được nuôi con đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con.

Xét điều kiện hiện tại của chị H và anh B cho thấy: Từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay cháu Ngọc do chị H trực tiếp nuôi dưỡng ổn định, nay giao con cho chị H nuôi là phù hợp với các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, về cấp dưỡng nuôi con chị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[4]. Về tài sản riêng, tài sản chung, công nợ, các mối quan hệ khác về tài sản và ruộng khoán của hợp tác xã: chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy Bn thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[6]. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Căn cứ Điều 147 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Bn thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử ly hôn giữa: Chị Phạm Thị H và anh Vũ Văn B.

2. Về con chung: Giao chị Phạm Thị H trực tiếp nuôi con chung là Vũ Như Ng, sinh ngày 01/10/2012 kể từ khi vợ chồng ly hôn cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, trưởng thành, có khả năng lao động tự lập được; anh B không phải cấp dưỡng nuôi con chung; Anh B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp tại biên lai thu số 0000378 ngày 23/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định (chị H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm).

4. Về quyền kháng cáo: Chị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh B có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì đương sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

322
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 23/08/2019 về ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:39/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về