Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 25/07/2019 về ly hôn giữa chị P và anh S

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 39/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/07/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ P VÀ ANH S

Ngày 25 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số: 223/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 4 năm 2019 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2019/QĐXX-ST ngày 27 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Kim P, sinh năm 1974; Cư trú tại: ấp C, xã H, huyện C, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn S, sinh năm 1970; Cư trú tại: ấp C, xã H, huyện C, tỉnh Bến Tre. Chị P có mặt, anh S vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các biên bản làm việc trong quá trình tố tụng tại Tòa án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Huỳnh Kim trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Phạm Văn S kết hôn vào năm 2000, hôn nhân do anh chị tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Sơn Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre vào ngày 05/10/2000. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống không có hạnh phúc. Nguyên nhân là do cả hai có bất đồng về quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng thường cãi nhau, cuộc sống vợ chồng lạnh nhạt dần. Đến năm 2017, chị nộp đơn xin ly hôn với anh S nhưng tại phiên tòa sơ thẩm chị đã rút đơn khởi kiện để vợ chồng hàn gắn. Tuy nhiên, thời gian vừa qua vợ chồng vẫn không hàn gắn được và sống ly thân từ cuối năm 2017 đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị với anh S không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh S.

Về con chung: Có 01 con chung tên Phạm Ngọc T, sinh ngày 31/01/2010, con chung hiện nay đang sống với anh S. Sau khi ly hôn, chị đồng ý để anh S tiếp tục nuôi con chung và không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị và anh S không có tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Phạm Văn S trong quá trình giải quyết vụ án mặc dù đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải theo đúng qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng anh S đều vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến hay yêu cầu của anh S.

Tại phiên tòa sơ thẩm Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu ý kiến: Về tố tụng: trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký và người tham gia tố tụng đã tuân thủ theo quy định của pháp luật. Về nội dung: theo Quyết định đình chỉ số 95/2017/QĐST- HNGĐ ngày 12/12/2017 cho thấy chị P có cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Chị P và anh S đã ly thân từ cuối năm 2017 đến nay. Trong quá trình tố tụng, anh S vắng mặt; điều đó cho thấy anh S không mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng nên có căn cứ xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị P và anh S đã trầm trọng, hôn nhân có kéo dài cũng không hạnh phúc nên đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị P. Về con chung, trong thời gian ly thân anh S trực tiếp nuôi con, chị P đồng ý để anh S tiếp tục nuôi và cháu T cũng có nguyện vọng sống cùng anh S nên đề nghị Hội đồng xét xử giao con cho anh S trực tiếp nuôi dưỡng; do anh S vắng mặt và không yêu cầu cấp dưỡng nên đề nghị Tòa án ghi nhận, nếu sau này anh S có yêu cầu cấp dưỡng thì được quyền khởi kiện bằng vụ án khác. Về tài sản chung và nợ chung, chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên ghi nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quan hệ tranh chấp giữa chị Huỳnh Kim P và anh Phạm Văn S là tranh chấp về ly hôn, bị đơn anh S hiện đang cư trú tại xã Sơn Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre đã tống đạt hợp lệ thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải nhiều lần nhưng bị đơn anh S vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án đã tiến hành lập biên bản không hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự và đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn anh S vẫn vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2. Do đó, căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh S.

[2] Về hôn nhân: Chị P và anh S tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Sơn Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre vào ngày 05/10/2000 (số 14) nên hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp. Chị P xác định, trong thời gian chung sống chị và anh S phát sinh nhiều mâu thuẫn và cả hai đã cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả nên chị cương quyết ly hôn. Xét thấy, theo Quyết định đình chỉ số 95/2017/QĐST-HNGĐ ngày 12/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre có căn cứ xác định rằng mâu thuẫn giữa chị P và anh S đã tồn tại từ lâu. Tại biên bản xác minh ngày 23/5/2019 của Tòa án cũng xác định được chị P và anh S đã ly thân hơn một năm nay; kết quả xác minh này phù hợp với lời khai của chị P. Trong suốt quá trình tố tụng, anh S vắng mặt; điều đó cho thấy, anh S không có thiện chí mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Từ đó có cơ sở để xác định, tình trạng mâu thuẫn vợ chồng giữa chị P và anh S đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu duy trì tình trạng này sẽ ảnh hưởng đến đời sống bình thường của các thành viên trong gia đình nên ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai. Do đó, căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị P.

[3] Về con chung: Theo giấy khai sinh do Ủy ban nhân dân xã Sơn Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre cấp ngày 23/3/2010 thì chị P và anh S có 01 con chung tên Phạm Ngọc T, sinh ngày 31/01/2010, con chung hiện nay đang sống với anh S. Chị P đồng ý đề anh S được tiếp tục nuôi con chung sau khi ly hôn. Xét thấy, từ khi chị P và anh S ly thân đến nay thì cháu T đang sống cùng anh S, chị P đi làm ăn xa; trong quá trình giải quyết vụ án cháu T cũng có nguyện vọng được sống cùng anh S. Do đó, để thuận tiện cho việc học và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con chung, không làm xáo trộn cuộc sống hiện nay của con, Hội đồng xét xử giao cháu T cho anh S trực tiếp nuôi là phù hợp theo Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Do anh S vắng mặt tại phiên tòa và không có yêu cầu gì về cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án ghi nhận. Nếu sau này anh S có yêu cầu gì về cấp dưỡng nuôi con thì được quyền khởi kiện bằng một vụ án khác.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét.

[5] Về án phí: Chị P phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đồng.

[6] Từ những nhận định nêu trên, xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành là có căn cứ nên được chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 147, 207, 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Huỳnh Kim P ly hôn với anh Phạm Văn S.

2. Về con chung: Giao con chung là Phạm Ngọc T, sinh ngày 31 tháng 01 năm 2010 cho anh S trực tiếp nuôi dưỡng; ghi nhận việc anh S không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con.

Chị P có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con mà không ai được cản trở. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét.

4. Về án phí: Chị P phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003071 ngày 03/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

Đương sự đã nộp đủ án phí.

Chị P có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh S vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HNGĐ-ST ngày 25/07/2019 về ly hôn giữa chị P và anh S

Số hiệu:39/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về