Bản án 39/2019/HSST ngày 09/05/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 39/2019/HSST NGÀY 09/05/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 09 tháng 05 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 39/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2019, đối với bị cáo:

Lê Xuân V - Sinh ngày 27/6/1984 tại xã A, huyện B , tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Xóm 9, xã A, huyện B, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Xuân Vượng và bà Nguyễn Thị Huệ; có vợ là chị Nguyễn Thị Phương và 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 29/12/2018 đến 18/01/2019; hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; “có mặt”.

Bị hại: Bà Trần Thị H, sinh năm 1950; đã chết.

Đại diện hợp pháp cho bị hại: Chị Phạm Thị Hồng H, sinh năm 1977; Chị Phạm Thị Mỹ H, sinh năm 1980; Anh Phạm Thanh Ch, sinh năm 1982; Anh Phạm Thành Ch, sinh năm 1983; Anh Phạm Khương D, sinh năm 1988; Ông Phạm Đức V, sinh năm 1950; địa chỉ: Xóm 9, xã A, huyện B, tỉnh Nam Định.

Người đại diện theo ủy quyền cho chị Phạm Thị Hồng H, chị Phạm Thị Mỹ H, anh Phạm Thanh Ch, anh Phạm Thành Ch và anh Phạm Khương D: Ông Phạm Đức V; “có mặt”.

Người làm chứng:

NLC1; “có mặt”.

NLC2; “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do làm nghề cơ khí nên khoảng tháng 9/2018, Lê Xuân V đã tự chế 01 chiếc xe 4 bánh bao gồm 01 khung kim loại có kích thước 3x 1,2m, cao 62cm được gắn 01 động cơ xe máy có dung tích 108ml, 01 ghế lái, hệ thống lái bằng vô lăng ôtô và có hệ thống chân ga, phanh... theo ý tưởng của mình không theo khuôn mẫu nào. Khoảng 13 giờ ngày 19/11/2018, Lê Xuân V một mình điều khiển chiếc xe này (V không có bằng lái của bất kỳ loại xe nào) từ nhà mình ở xóm 9 xã Giao Lạc trên trục đường liên xã Giao Xuân - Giao Lạc hướng về UBND xã Giao Lạc. Khi V điều khiển xe đến khu vực ngõ nhà ông Nguyễn Thái Nguyên, sinh năm 1963 ở xóm 8 xã Giao Lạc V thấy phần bốt lái phía dưới bị lỏng lẻo, bung ốc hãm, vô lăng điều khiển lái vô hiệu (không điều khiển được). Cùng lúc này V thấy phía trước ngược chiều xe của V có bà Trần Thị H, sinh năm 1950 trú tại xóm 8 xã Giao Lạc đang đi xe đạp ở khoảng giữa đường và cách xe của V khoảng 15 đến 20m. V cố đánh lái sang phải theo chiều đi của mình để tránh bà Hảo nhưng do vô lăng lái lúc này đã bị mất hiệu lực nên xe của V xiên sang bên trái, lấn sang phần đường của xe bà Hảo, Thấy vậy V hô bà Hảo Tránh ra” nhưng xe do V điều khiển vẫn lao sang bên trái đường và do hốt hoảng V tiếp tục đạp nhầm chân ga thay vì phanh xe làm xe càng đi nhanh hơn đâm vào thân xe bên trái của xe bà Hảo (mặc dù bà Hảo đã điều khiển xe đạp của mình tránh ra lề đường) làm bà Hảo bị ngã, xe V tiếp tục đẩy xe và người bà Hảo ép sát vào gốc cây sung gần đó mới dừng lại làm bà Hảo bị thương nặng và chết trên đường đi cấp cứu. Sau khi nhận được tin bà Hảo tử vong, do sợ trách nhiệm nên V đã cùng chú họ là NLC1, sinh năm 1971 trú tại xóm 9 xã Giao Lạc cắt rời các bộ phận của chiếc xe tự chế đã gây ra tai nạn cho bà Hảo đem cất giấu.

Tại bản kết luận giám định pháp y số 978/GĐKTHS ngày 23/11/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận nguyên nhân chết của bà Trần Thị H là chết do sốc đa chấn thương.

Bản Cáo trạng số 38/CT-VKS ngày 16/04/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Lê Xuân V về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Xuân V phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”; Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260, các điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 54 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Lê Xuân V từ 30 đến 36 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng; không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung; áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy các bộ phận của xe tự chế đã thu giữ trong vụ án.

Bị cáo không tự bào chữa, tranh luận gì. Bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Trong lời nói sau cùng, bị cáo tỏ rõ sự ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc kết tội bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại giai đoạn điều tra, phù hợp với các biên bản khám nghiệm, vật chứng thu giữ, phù hợp với lời khai của người tham gia tố tụng khác; Kết hợp với kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, từ đó đã đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 13 giờ ngày 19/11/2018, Lê Xuân V một mình điều khiển chiếc xe bốn bánh do V tự chế đến khu vực xóm 8 xã Giao Lạc thì xe V điều khiển mất lái lao sang phần đường ngược chiều đâm vào xe đạp của bà Trần Thị H điều khiển, gây tai nạn. Hành vi của bị cáo vi phạm khoản 4 điều 8, Điều 9 của Luật giao thông đường bộ. Hậu quả của hành vi của bị cáo làm bà Trần Thị H chết. Lê Xuân V không có bằng lái của bất kỳ loại xe nào. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự; Như quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy là phù hợp.

[3] Về tính nguy hiểm của hành vi: Hành vi của Lê Xuân V là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm về trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại về tính mạng cho người khác. Hành vi của bị cáo xảy ra trong bối cảnh tai nạn giao thông đang là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội, gây nên tâm lý bất an lo lắng cho những người tham gia giao thông. Trong khi toàn xã hội đang tìm mọi biện pháp để giảm thiểu những vụ tai nạn giao thông, bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi nhưng thiếu hiểu biết pháp luật, đưa phương tiện tự chế không đủ điều kiện lưu hành tham gia giao thông, không có bất kỳ Giấy phép lái xe nào, không chấp hành nghiêm chính luật giao thông đường bộ, gây ra thiệt hại nghiêm trọng. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo nhằm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lê Xuân V có phạm tội lần đầu, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Bị cáo đã bồi thường thiệt hại đã gây ra cho gia đình bị hại; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đại diện hợp pháp cho bị hại có quan điểm xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Vì vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn. Tuy nhiên, thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, nên không buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng trừng trị, giáo dục, cải tạo bị cáo và phù hợp với quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại, đại diện hợp pháp cho người bị hại không có yêu cầu đòi bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

[7.1] Khung xe và một số bộ phận của chiếc xe tự chế được tháo rời là phương tiện gây tai nạn và cấm lưu hành nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

[7.2] Mẫu vật trong phong bì niêm phong hoàn trả mẫu vật giám định không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[7.3] Quá trình điều tra xác định chiếc xe đạp của bà Trần Thị H điều khiển thiệt hại không đáng kể và là tài sản hợp pháp của gia đình bà Hảo nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Giao Thủy đã trả lại chiếc xe trên cho chồng bà Hảo là ông Phạm Đức Văn là phù hợp.

[8] Đối với NLC1 biết chiếc xe tự chế do V điều khiển gây tai nạn nhưng đã có hành vi cùng V cắt chiếc xe tự chế vì sợ tránh trách nhiệm. Nhưng xét thấy hành vi trên của Quảng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên không đặt ra vấn đề xử lý.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải nộp quy định pháp luật

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b và điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố bị cáo Lê Xuân V phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”;

Xử phạt bị cáo Lê Xuân V 3 (ba) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 5 năm, kể từ ngày tuyên án. (Bị cáo đã bị tạm giam từ ngày 29/12/2018 đến ngày 18/01/2019).

Giao bị cáo Lê Xuân V cho Ủy ban nhân dân xã Giao Lạc, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo. Trong trường hợp bị cáo Lê Xuân V thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 xe bốn bánh, 01 khung kim loại, 01 động cơ mô tô, 04 thanh kim loại;

Tịch thu tiêu hủy 01 mẫu vật giám định trong phong bì niêm phong.

(Chi tiết về chiếc xe được miêu tả theo Biên bản giao nhận số 54/THA ngày 17/04/2019 giữa Công an huyện Giao Thủy và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giao Thủy)

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 cùng Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo của Ủy ban thường vụ Quốc hội; buộc bị cáo Lê Xuân V phải nộp 200.000 đồng.

4. Bị cáo Lê Xuân V, đại diện hợp pháp cho bị hại có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

5. Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

362
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HSST ngày 09/05/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:39/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về