Bản án 39/2019/HSST ngày 18/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 39/2019/HSST NGÀY 18/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay ngày 18 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 28/2019/HSST ngày 14 tháng 3 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Hồng L (tên gọi khác: Không); sinh ngày 10 tháng 01 năm 1979 tại huyện Y, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Xóm P, xã ĐT, huyện Y, tỉnh Nghệ An; Nơi ĐKHKTT: Xóm P, xã ĐT, huyện Y, tỉnh Nghệ An. nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Văn L, sinh năm 1951 và con bà: Nguyễn Thị Ư, sinh năm 1952; vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1981, con: 03 con, đứa lớn sinh năm 2006, đứa nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/01/2019 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng: Anh Ngô Sỹ M, sinh 1994

Nơi cư trú: Thôn 3, xã DK, huyện D, tỉnh Nghệ An (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

- Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào khoảng 9 giờ 30 phút ngày 11/01/2019, Vũ Hồng L gọi điện cho một người bạn tên Th ở huyện Y và hỏi “có biết ai bán hồng phiến không lấy cho hai gói” thì Th nói để gọi cho bạn xem có hay không. Khoảng một tiếng, Th gọi điện thoại lại cho L nói là có bạn tên D người ở huyện D bán hồng phiến. L hỏi Th “họ lấy giá bao nhiêu” thì Th nói mỗi gói hồng phiến giá 6.700.000 đồng và hẹn L hôm sau gặp nhau tại chung cư khách sạn M để lấy ma túy.

Đến khoảng 18 giờ ngày 12/01/2019, Th gọi điện bảo L xuống cổng chung cư M lấy ma túy. L đi xuống cổng chung cư gặp Th thì Th bảo L đưa tiền, L đưa cho Th 13.400.000 đồng. Th cầm lấy tiền và chỉ vào người đàn ông tên là D đứng cách Th một đoạn và bảo L đi đến gặp người này và lấy ma túy. L đi đến thì người này đưa cho L 02 gói ma túy được gói trong hai bao nilon màu xanh; sau đó, L đón xe taxi đi về nhà.

Khoảng 18 giờ 45 phút cùng ngày, khi L đang đi bộ tại đoạn đường liên xóm thuộc xóm 2, xã DT thì bị lực lượng công an huyện D kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang, thu giữ và niêm phong 02 gói ma túy.

Theo biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại ngày 13/01/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D xác định tổng khối lượng các viên nén màu hồng thu giữ của Vũ Hồng L có khối lượng 39,8 gam.

Kết luận giám định số 276/KL-PC54 (MT) ngày 15/01/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An, kết luận: Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Vũ Hồng L gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine), có khối lượng 39,8 gam.

Bản cáo trạng số 39/CT-VKSDC ngày 11/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện D truy tố bị cáo: Vũ Hồng L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù đến 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vật chứng: Căn cứ khoản 1 điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đã thu giữ của Vũ Hồng L.

Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận gì về tội danh, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, Vũ Hồng L khai nhận: Bị cáo là người nghiện ma túy nên vào khoảng 18 giờ 45 phút ngày 12/01/2019 tại đường liên xóm thuộc xóm 2, xã Diễn Thành. Vũ Hồng Lập đã có hành vi tàng trữ trái phép 39,8 gam ma túy Methamphetamine để sử dụng thì bị Công an huyện D kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang.

Bị cáo thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, động cơ, mục đích phạm tội nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu cá nhân của mình. Bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp các chứng cứ, kết luận giám định, tài liệu thu thập có tại hồ sơ vụ án thì đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Vũ Hồng L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, khoản 3 điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất vụ án: Tính chất vụ án rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm sức khỏe và sự phát triển giống nòi của dân tộc. Bị cáo là người nghiện ma túy, mục đích mua ma túy về để sử dụng. Trong tình hình hiện nay các tội phạm về ma túy ngày càng gia tăng nhất là trên địa bàn huyện D. Khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo là 39,8 gam, ba ngành Công an, Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân huyện D xác định là vụ án trọng điểm. Do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Trước khi phạm tội bị cáo đã tích cực hợp tác với Đồn biên phòng Na Ngoi trong việc tố giác tin báo tội phạm bắt và xử lý vụ án “Tàng trữ trái phép chất ma túy” có nhiều đóng góp trong công tác phòng chống tội phạm được Đồn biên phòng Na Ngoi tỉnh Nghệ An xác nhận đề nghị; Bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì. Do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên cần áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự quyết định áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày sau khi tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 điều 249 BLHS quy định: “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 500 triệu đồng”, do dó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo có thu nhập thấp, điều kiện kinh tế khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Trong vụ án này hai người đàn ông tên Th và tên D là những người bán ma túy cho L. Do không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra, xác minh khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

[5] Vật chứng: Căn cứ khoản 1 điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo vật chứng gồm: 01 phong bì thư niêm phong gián kín bên trong chứa ma túy là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí hình sự: Căn cứ vào điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14. Buộc bị cáo Vũ Hồng L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s, t khoản 1, khoản 2 điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Hồng L 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 12/01/2019.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 bộ luật hình sự và căn cứ điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư bưu điện đã niêm phong gián kín bên trong chứa 37,8 gam ma túy là vật chứng vụ án. Toàn bộ vật chứng hiện đang bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện D theo phiếu nhập kho số 49 ngày 13 tháng 3 năm 2019.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14. Buộc bị cáo Vũ Hồng L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HSST ngày 18/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:39/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về