Bản án 39/2019/HS-ST ngày 30/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 39/2019/HS-ST NGÀY 30/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 36/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2019, đối với bị cáo:

Lê Trọng D (tên gọi khác: Thích Tục Đ), sinh năm 1992 tại Nam Định; nơi cư trú: P, xã H, huyện H, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Đ và bà Phạm Thị T; vợ, con: Không; tiền sự: Không; tiền án: Bản án số 11/2019/HS-PT ngày 26 tháng 02 năm 2019 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt bị cáo 18 (mười tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/5/2019 đến nay; có mặt.

- Bị hại: Ông Lê Văn D (pháp danh: Thích Thanh D), sinh năm 1974; nơi cư trú: Thôn 8, Đ, xã Ch huyện L, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Chị Đoàn Thị L; vắng mặt.

2. Anh Vũ Văn D; vắng mặt.

3. Anh Trần Minh T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 05/5/2019, Lê Trọng D mang theo 01 balô bên trong có 01 chiếc búa, 01 chiếc tua vít, 01 kìm cộng lực, 01 chiếc quần và 02 chiếc áo màu nâu (áo cho người đi tu) rồi thuê xe taxi đến chùa Thông thuộc thôn 8, Đ, xã Ch, huyện L, tỉnh Hà Nam mục đích trộm trộm cắp tài sản. Lê Trọng D từng đi tu và nhiều lần đến chùa Thông nên D thông thuộc địa hình, Doãn đi thẳng vào phòng ngủ của ông Lê Văn D (là sư trụ trì chùa Th) rồi lén lút tìm kiếm trong tay nải màu vàng và lấy trong đó một tập tiền. Sau đó D đi ra taxi để bỏ trốn, khi ra đến sân thì gặp ông Lê Văn D, ông D nghi ngờ D trộm cắp tài sản nên đã vào phòng ngủ kiểm tra thì phát hiện bị mất tiền, ông D đã hô hoán người dân bắt giữ Lê Trọng D và thu giữ trong balô của D số tiền 1.836.000 đồng, D đã thừa nhận vừa trộm cắp số tiền này của ông Lê Văn D; ngoài ra còn thu của D 01 chiếc búa dài 37cm, 01 kìm cộng lực dài 47cm, 01 tua vít dài 30cm, 01 balô bằng vải màu xám có sọc đen, 01 quần nâu và 02 áo nâu đều đã cũ, 01 điện thoại di động Nokia 130 và 01 điện thoại di động Nokia 216.

Về trách nhiệm dân sự: Công an huyện Lý Nhân đã trả lại ông Lê Văn D số tiền 1.836.000 đồng; ông D không yêu cầu bồi thường thêm và không có ý kiến gì khác.

Tại bản cáo trạng số 42/CT-VKSLN ngày 26/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đã truy tố Lê trọng D về tội “Trộm cắp tài sản”, theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

- Kiểm sát viên trong phần tranh luận giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Trọng D từ 18 đến 24 tháng tù; Tổng hợp hình phạt 18 (mười tám) tháng tù tại bản án số 11/2019/HS-PT ngày 26/02/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 36 đến 42 tháng tù và đề nghị hướng xử lý vật chứng, án phí vụ án.

- Bị cáo Lê Trọng D khai nhận hành vi của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý nhân đã truy tố; không có ý kiến tranh luận, bào chữa hay khiếu nại gì và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

- Bị hại, ông Lê Văn D không có ý kiến gì về phần bồi thường, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo Lê Trọng D tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và phù hợp với vật chứng thu giữ. Do đó đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ ngày 05/5/2019, Lê Trọng D đã lén lút vào phòng ngủ của ông Lê Văn D là sư trụ trì chùa Thông thuộc thôn 8, Đ, xã Ch, huyện L, tỉnh Hà Nam trộm cắp của ông D số tiền 1.836.000 đồng. Số tiền Lê Trọng D trộm cắp dưới hai triệu đồng, tuy nhiên bị cáo đã có một tiền án năm 2019 về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, do đó hành vi của Lê Trọng D đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Quan điểm kết tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đối với bị cáo đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo Lê Trọng D là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an địa phương. Bị cáo tuổi còn trẻ, có sức khỏe và nhận thức, đã từng có thời gian dài tu tại chùa, nơi luôn răn dậy con người những điều tốt lành, từ bi, hướng thiện nhưng bị cáo không chịu học tập, rèn luyện mà ham chơi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Bị cáo đã bị Tòa án xét xử về tội trộm cắp tài sản chưa thi hành bản án bị cáo lại tiếp tục thực hiện tội phạm, thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải ra một bản án nghiêm mức, áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có thể cải tạo bị cáo, đồng thời có tác dụng phòng ngừa tội phạm chung. Khi lượng hình cũng xem xét nhân thân và các tình tiết liên quan đối với bị cáo.

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích.

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bản án số 11/2019/HS-PT ngày 26/02/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt bị cáo 18 (mười tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa thi hành hình phạt của bản án này nên áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt.

[3] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường thêm nên không xem xét.

[5] Xử lý vật chứng: 01 điện thoại di động Nokia 130 và 01 điện thoại di động Nokia 216 không liên quan đến việc phạm tội, tuy nhiên tại phiên tòa bị cáo không nhận lại hai chiếc điện thoại nên trên, nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Các vật chứng còn lại không có giá trị sử dụng, tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; bị hại được quyền kháng cáo.

Đối với Trần Minh Th là người lái xe taxi chở bị cáo về chùa Thông. Quá trình điều tra xác định anh Thông không biết Lê Trọng D thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, nên không xem xét trách nhiệm đối với anh Trần Minh Th.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lê Trọng D (tên gọi khác Thích Tục Đ) phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lê Trọng D 15 tháng tù; tổng hợp hình phạt 18 (mười tám)

tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/3/2018 đến ngày 31/7/2018 tại Bản án số 11/2019/HS-PT ngày 26/02/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 33 (Ba mươi ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/5/2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động Nokia 130 và 01 điện thoại di động Nokia 216.

- Tịch thu tiêu huỷ: 01 chiếc búa dài 37cm, 01 kìm cộng lực dài 45cm, 01 tua vít dài 30cm, 01 balô bằng vải màu xám có sọc đen, 01 chiếc quần màu nâu và 02 chiếc áo màu nâu đều đã cũ.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng cụ thể như biên bản bàn giao vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lý Nhân ngày 3/7/2019).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/1016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Lê Trọng D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo bản án: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của các Điều 6,7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HS-ST ngày 30/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:39/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lý Nhân - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về