Bản án 398/2019/HS-PT ngày 17/07/2019 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 398/2019/HS-PT NGÀY 17/07/2019 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 17 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 150/2019/TLPT-HS ngày 01 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Văn Th và các bị cáo khác, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2019/HSST ngày 29 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.

- Bị cáo:

1/. Nguyễn Văn Th, sinh năm 1952; Thường trú: ấp H, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 5/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn D (chết) và bà Lê Thị S (chết); Có vợ là Lê Thị B (chết) và 05 người con (lớn nhất sinh năm 1976, nhỏ nhất sinh năm 1988); Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giữ ngày 24/3/2018; Tạm giam ngày 30/3/2018. (có mặt)

2/. Nguyễn Minh Th1, sinh năm 1982; Thường trú: ấp H, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Chăn nuôi; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn Th và bà Lê Thị B (chết); Có vợ là Đỗ Thị Chúc L (sinh năm 1988) và 01 người con (sinh năm 2011); Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giữ ngày 23/3/2018; Tạm giam ngày 01/4/2018. (có mặt)

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Th và Nguyễn Minh Th1: Luật sư Phan Thị Thanh H – Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

3/. Lê Văn T, sinh năm 1954; Thường trú: khóm P, thị trấn C1, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Làm vườn; Trình độ học vấn: 4/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Lê Văn B (chết) và bà Nguyễn Thị S (chết); Có vợ là Lê Thị M (sinh năm 1954) và 03 người con (lớn nhất sinh năm 1977, nhỏ nhất sinh năm 1985); Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giữ ngày 23/3/2018; Tạm giam ngày 01/4/2018. (có mặt)

Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn T: Luật sư Võ Tuấn A – Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

- Người bị hại: Trương Văn Th2, sinh năm 1971. (chết)

Người đại diện hợp pháp của người bị hại:

1/. Ông Trương Văn C, sinh năm 1942. (có mặt)

Địa chỉ: chung cư HTĐ, phường Tr, quận Th, Thành phố Hồ Chí Minh.

2/. Bà Phạm Thị Ch, sinh năm 1944. (có mặt)

Địa chỉ: ấp H1, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Long.

3/. Ông Trương Hữu Ph, sinh năm 1995. (có mặt)

Địa chỉ: phường B, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh.

4/. Bà Trương Thụy Mỹ D, sinh năm 2000. (có mặt)

Địa chỉ: đường X, Phường 10, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Thị B (Lớn), Lê Thị B (Nhỏ), Lê Văn T, Lê Thị Kim T1, Lê Thanh B1, Lê Thị Kim L và Lê Quan H là con của ông Lê Văn B và bà Nguyễn Thị S; Nguyễn Văn Th là chồng và Nguyễn Minh Th1 là con của bà Lê Thị B (Nhỏ). Sau khi ông B và bà S chết, các người con phát sinh tranh chấp và được Tòa án giải quyết giao cho ông H hưởng thừa kế quyền sử dụng diện tích đất 1749m2 thuộc thửa 797 tại ấp H, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.

Do ông H nợ vàng của bà Lê Thị Hồng L1 và đã có quyết định của Toà án buộc H trả vàng cho bà L1. Sau đó, cơ quan thi hành án đã tiến hành cưỡng chế kê biên thửa ruộng 797 nêu trên giao cho L1 quản lý, khai thác, sử dụng.

Đến khoảng 12 giờ ngày 23/3/2018, tại nhà H; H, T, T1 bàn nhau đem lúa ra sạ tại phàn đất thửa 797 nêu trên. Sau đó, T1 gọi điện thoại cho Th và Th1 (con Th) cùng ra ruộng sạ lúa. Trước khi đi, T nói với H: “Mầy kiếm cái gì đem theo để tự vệ”. Sau đó, H vào bếp lấy một cây mác cán gỗ dài 53cm, đem ra nói với T: “Chỉ có cái mác này hà”, rồi H bỏ cái mác vào giỏ xách. T cũng vào bếp lấy một thanh sắt cạnh vuông dài 47cm, có cạnh 3cm x 3cm, để vào cùng giỏ xách. Ngoài ra, T và H còn lấy một thanh sắt tròn (loại sắt phi 10) hai đầu nhọn, dài 42,3 cm và 02 con dao yếm để vào giỏ xách. H dự định sau khi sạ lúa xong sẽ vào vườn nhà dùng sắt nhọn để vùi thúng làm ổ cho gà đẻ, còn T dùng dao yếm chặt sậy để cấm luống khi sạ. Sau đó, T1 xách giỏ xách, còn T và H đẩy xe chở lúa giống ra đến ruộng thì Th và Th1 cũng vừa đến. Tại ruộng, Th, Th1, H cùng sạ lúa, còn T và T1 thì đắp đất bờ ranh và dọn cỏ đường thoát nước.

Cùng thời điểm này, L1 gọi điện thoại cho anh P (anh rể L1) kêu P ra ruộng xem nước trong ruộng có thể sạ lúa được hay chưa, rồi L1 đi cùng Trương Văn Th2 (bạn trai L1) ra ruộng vì nghĩ rằng những người bên Th sẽ ra sạ lúa. Trên đường đi, L1 thấy trên xuồng đang đậu cặp ruộng dưới kênh thủy lợi có vài khúc gỗ và sắt nên L1 lấy 02 thanh sắt tròn, mỗi thanh sắt dài 50cm, cầm trên tay phải rồi tiếp tục đi ra ruộng. Do L1 đi trước nên không rõ Th2 đi sau có lấy hung khí gì không. Khi ra đến ruộng, L1 gặp Th đang sạ lúa cặp đường thoát nước giữa ruộng nên đến nói với Th: “Đất của tôi ai cho ông sạ”. Th trả lời: “Đất của tao thì tao sạ”. L1 đang cầm 02 thanh sắt trên tay phải nên giơ lên đánh vào người Th, Th giơ tay chụp được thanh sắt của L1, nên cả hai giằng co nhau. Th2 đứng tại bờ ranh thấy vậy nên chạy lại hỗ trợ L1. Th1 đang sạ lúa cũng bỏ thau lúa xuống ruộng rồi chạy lại tiếp Th. Lúc này, Th2 đang cầm 01 thanh sắt dài khoảng 01 mét đánh vào người Th. H đang sạ lúa, T đang móc đường nước thấy Th bị Th2 đánh nên chạy đến giỏ xách đang để ở bờ ranh ruộng, H lấy trong giỏ xách cái mác cầm trên tay trái, còn T cũng lấy trong giỏ xách một thanh sắt có cạnh vuông cầm trên tay phải, rồi cả hai cùng chạy về phía Th. Lúc này, Th2 không còn cầm thanh sắt trước đó nữa mà mỗi tay cầm 01 thanh sắt tròn dài 50cm do L1 và Th giằng co nhau rớt xuống ruộng; Th2 hai tay cầm 02 thanh sắt đánh liên tục về phía Th, Th đưa tay trái lên đỡ nên thanh sắt trúng cánh tay trái và vùng đầu Th. Th1 đứng cạnh Th thấy 01 thanh sắt tròn dài 1,07 mét dưới ruộng cạnh nơi Th và Th2 nên Th1 lượm thanh sắt lên cầm bằng hai tay đánh qua lại nhiều cái về phía Th2 trúng vào vai Th2 01 cái.

Riêng anh P, sau khi nghe điện thoại của L1 thì chạy xe đến nhà anh H gửi xe để đi ra ruộng. Từ nhà H, P nhìn ra ruộng thấy anh em Th đang sạ lúa trên thửa ruộng đang tranh chấp. P sợ có đánh nhau nên đến cự củi bên hông nhà H lấy một thanh sắt hình hộp dài 1,1 mét, cạnh 2,5cm x l,3cm, cầm trên tay phải rồi đi ra mộng. Trên đường đi, P thấy Th2 đang đánh nhau với Th1 nên P cầm thanh sắt chạy về phía Th2 để tiếp Th2.

Sau khi T và H lấy thanh sắt và mác cầm trên tay thì T chạy trước đến nơi Th1, Th đang đánh nhau với Th2. T cầm thanh sắt có cạnh vuông đánh trúng vùng đầu của Th2 khoảng 02 - 03 cái. H chạy sau T, khi còn cách Th2 khoảng 03 đến 04 mét thì thấy P đang cầm 01 thanh sắt chạy đến nên H cầm mác đánh nhau với P, cách nơi Th2 và Th, Th1, T đánh nhau khoảng 04 mét. Được T và Th1 vào tiếp nên Th không còn bị Th2 đánh, đồng thời phát hiện L1 và T1 đang giằng co nhau cách Th khoảng 02 mét nên Th quay sang can L1 và T1 ra.

Sau khi Th can đuợc L1 và T1 ra thì Th phát hiện trên ruộng 01 con dao có cán bằng nhựa màu vàng, lưỡi bằng kim loại màu trắng mũi nhọn, con dao dài khoảng 20cm (loại dao Thái lan). Th lượm con dao lên cầm trên tay phải, mũi dao hướng về trước, rồi quay lại về phía Th2. Lúc này Th2 đang đánh nhau với Th1 và T, còn H và P đang đánh nhau cách đó khoảng 04m. Th2 cầm thanh sắt đánh vào người Th nên Th đưa tay trái lên đỡ, đồng thời tay phải cầm dao đâm thắng tới trúng vào vùng ngực của Th2 01 cái. Khi Th rút con dao ra thì lưỡi dao bị tuột khỏi cán rớt xuống ruộng, Th chỉ còn cầm cán dao. Bị đâm trúng, Th2 gục xuống ruộng. Thấy vậy, mọi người dừng lại không đánh nhau nữa.

Sau khi Th2 bị đâm, P bỏ thanh sắt xuống ruộng rồi cùng L1 chạy đến kéo Th2 vào bờ ranh rồi kêu người đưa Th2 xuống xuồng chở đi cấp cúu nhưng Th2 đã tử vong. Do Th cũng bị thưong tích ở cánh tay trái và vùng đầu nên Th1 và T đến kè Th vào bờ đất. Trên đường vào bờ đất, Th đã ném bỏ cán dao xuống ruộng. Khi vào đến bờ đất, Th nói với H và Th1: “Mầy coi nó có sao không?” H trả lời: “Nó được kè vào bờ ranh kìa”. Th nói: “Con dao, tao lỡ đâm nó, chắc nó chết quá, chuyến này chắc tao ở tù quá”. H suy nghĩ rằng Th đã lớn tuồi, thương Th nên nói: “Thôi có gì tôi nhận thế cho” Sau đó, H đưa cho T1 cái mác và một con dao yếm kêu T1 cất, T1 không biết cất đâu nên đã cắm xuống đất cặp mé ao trong vườn ổi nhà H. T thì ném thanh sắt vuông xuống ao nước cũng trong vườn ổi nhà H. Th được mọi người đưa ra đường để đi cấp cứu. Lúc này, lực lượng Công an xã A cũng vừa đến nên đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Văn T, Nguyễn Minh Th1 và Lê Quan H. Riêng Th do vết thương nặng nên được đưa đến cấp cúu và điều trị tại Trung tâm y tế huyện C.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 243 ngày 12/4/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự kết luận: Trương Văn Th2 bị đa chấn thương do vật tày và vật sắc nhọn tác động trực tiếp vào cơ thể trong đó vết thương thấu ngực làm thủng quai động mạch chủ tim dẫn đến mất máu cấp là nguyên nhân chính dẫn đến tử vong.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 220 ngày 28/6/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Tháp kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thế của Nguyễn Văn Th do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 11%.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 219 ngày 28/6/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Tháp kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của Lê Văn T do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 03%.

Kết quả điều tra xác định Th2 là người trực tiếp sử dụng 02 thanh sắt đánh Th gây tỉ lệ thương tật là 11% và đánh T gây tỉ lệ thương tật là 03%. Tuy nhiên, do Th2 đã chết nên không xem xét trách nhiệm hình sự đối với Th2

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2019/HSST ngày 29 tháng 01 năm 2019, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Th, Lê Văn T và Nguyễn Minh Th1 cùng phạm tội “Giết người”.

Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/3/2018.

Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Lê Văn T 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/3/2018.

Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Th1 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/3/2018.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 357; Điều 468; Điều 586; Điều 591 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ghi nhận sự tự nguyện của các bị cáo Nguyễn Văn Th, Nguyễn Minh Th1 và Lê Văn T đồng ý bồi thường theo yêu cầu của người đại diện hợp pháp của người bị hại là ông Trương Văn C, bà Phạm Thị Ch, Trương Thụy Mỹ D, Trương Hữu Ph tiền mai táng phí và tiền tổn thất về tinh thần, tổng cộng hai khoản là 191.852.335 đồng nhưng trừ đi 20.000.000 đồng gia đình các bị cáo đã bồi thường trước, các bị cáo còn phải liên đới bồi thường tiếp số tiền 171.852.335 đồng (một trăm bảy mươi một triệu tám trăm năm mươi hai nghìn ba trăm ba mươi lăm đồng). 

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 13/2/2019, bị cáo Lê Văn T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; người đại diện hợp pháp của bị hại ông Trương Hữu Ph, bà Trương Thụy Mỹ D, ông Trương Văn C, bà Phạm Thị Ch có đơn kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn Th, Nguyễn Minh Th1, Lê Văn T và tăng mức bồi thường thiệt hại.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Văn T và đại diện người bị hại vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nêu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Do bị hại cũng có một phần lỗi trong vụ án này khi không có mâu thuẫn gì với các bị cáo nhưng vẫn cùng bà L1 đem theo hung khí và phía bị hại cũng là người tấn công trước nên mới xảy ra sự việc trên. Do đó, kháng cáo của đại diện người bị hại là không có cơ sở chấp nhận. Tại phiên tòa bị cáo T cho rằng gia đình đã bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại thêm 50 triệu đồng, biên lai đã nộp cho Tòa sơ thẩm. Tuy nhiên mức hình phạt đã tuyên đối với các bị cáo là phù hợp nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư tham gia bào chữa cho bị cáo T trình bày: Gia đình bị cáo T có thi hành khoản tiền bồi thường 50 triệu đồng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đại diện bị hại cho rằng mức hình phạt đã tuyên đối với các bị cáo là nhẹ; các bị cáo xem thường pháp luật, đã đem theo hung khí, thể hiện các bị cáo đã có sự chuẩn bị trước. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử tăng hình phạt đối với các bị cáo. Về phần trách nhiệm dân sự, đại diện người bị hại rút lại yêu cầu kháng cáo, không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:

Xuất phát từ mâu thuẫn trong việc tranh chấp đất đai, ngày 23/3/2018, Lê Quan H, Lê Văn T, Lê Thị Kim T1, Nguyễn Văn Th, Nguyễn Minh Th1 đem lúa ra sạ tại phần đất tranh chấp với bà Lê Thị Hồng L1. Khi đi, H và T mang theo 01 cây mác cán gỗ dài 53cm, 01 thanh sắt vuông dài 47cm, 01 thanh sắt tròn dài 42,3cm và 02 con dao yếm. Cùng lúc đó, phía bà L1 cũng ra ruộng để xem nước trước khi sạ lúa; đi cùng bà L1 là bị hại Trương Văn Th2 và ông Phan Văn P. Khi hai bên gặp nhau thì xảy ra cự cãi, bà L1 dùng 02 thanh sắt lấy được trên xuồng trước đó đánh vào người Th; Th và Th1 cùng giằng co với bà L1 thì Th2 cầm thanh sắt đánh vào người Th nhiều cái; thấy vậy Th1 dùng cây sắt đánh nhiều cái vào vai Th2; T cũng lấy thanh sắt đánh vào vùng đầu Th2 2-3 cái. Sau đó, khi phát hiện trên ruộng có con dao Thái Lan thì Th lượm và đi về phía Th2; Th2 cầm thanh sắt đánh vào người Th thì Th dùng dao đâm vào ngực Th2 01 cái dẫn đến tử vong.

Với hành vi như đã nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử Nguyễn Văn Th, Nguyễn Minh Th1, Lê Văn T về tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Văn T:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác, gây đau thương mất mát cho gia đình nạn nhân. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo T có xuất trình biên lai đã bồi thường thêm cho gia đình bị hại số tiền 50 triệu đồng. Tuy nhiên, mức hình phạt cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là còn nhẹ. Do đó, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không có căn cứ chấp nhận.

[3] Xét kháng cáo của đại diện người bị hại:

[3.1] Về hình phạt:

Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét trong vụ án phía người bị hại cũng có lỗi dùng hung khí tấn công trước đối với các bị cáo, bản thân bị cáo Nguyễn Văn Th cũng bị thương tích với tỷ lệ 11% do bị hại gây ra; các bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo Th và T sau khi phạm tội cũng đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã khắc phục một phần hậu quả; bị cáo T có thân nhân có công với cách mạng. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo T có xuất trình biên lai đã bồi thường thêm cho gia đình bị hại số tiền 50 triệu đồng. Tuy nhiên, hành vi của các bị cáo có sự chuẩn bị từ trước, thể hiện sự coi thường pháp luật. Thửa đất tranh chấp đã được cơ quan nhà nước giao cho phía người bị hại nhưng các bị cáo có sự chống đối, tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật dẫn đến cự cãi, ẩu đả, hậu quả làm 01 người chết. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Th 09 năm tù, Th1 04 năm tù và T 06 năm tù là có phần nhẹ, chưa nghiêm khắc, cần tăng hình phạt đối với các bị cáo.

Do đó, kháng cáo của đại diện người bị hại yêu cầu tăng hình phạt đối với các bị cáo là có căn cứ chấp nhận.

[3.2] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện người bị hại đã rút lại yêu cầu kháng cáo về phần dân sự. Do đó, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo này theo quy định pháp luật.

[4] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn T; có căn cứ chấp nhận kháng cáo của đại diện người bị hại; sửa một phần bản án sơ thẩm về hình phạt.

[5] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Lê Văn T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 342; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355 và Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

1/. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của đại diện người bị hại ông Trương Hữu Ph, bà Trương Thụy Mỹ D, ông Trương Văn C, bà Phạm Thị Ch về phần trách nhiệm dân sự.

2/. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn T; Chấp nhận kháng cáo của đại diện người bị hại ông Trương Hữu Ph, bà Trương Thụy Mỹ D, ông Trương Văn C, bà Phạm Thị Ch.

Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2019/HSST ngày 29 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp về phần hình phạt.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Th, Lê Văn T và Nguyễn Minh Th1 phạm tội “Giết người”.

Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/3/2018.

Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Lê Văn T 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/3/2018.

Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Th1 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/3/2018.

Tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3/. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4/. Bị cáo Lê Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

289
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 398/2019/HS-PT ngày 17/07/2019 về tội giết người

Số hiệu:398/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về