Bản án 40/2018/HSST ngày 17/05/2018 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 40/2018/HSST NGÀY 17/05/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 17 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 28/2018/TLST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2018/QĐXXST-HS ngày 04/5/2018, đối với bị cáo: TRẦN THỊ T, sinh ngày 06/9/1962, tại TQ

Nơi ĐKHKTT: Tổ 32, phường MX, thành phố TQ, tỉnh Tuyên Quang; Tạm trú: Tổ 34, phường P, thành phố TQ, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn A và bà Nguyễn Thị K (đều đã chết); Chồng: Không có, con: Có 01 con sinh năm 1997.

* Tiền án: Không.

* Tiền sự: Ngày 15/6/2017 bị Công an phường MX, thành phố TQ xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 49, phạt tiền 1.000.000đ về hành vi đánh bạc, đã nộp tiền ngày 19/6/2017.

Bị cáo hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

1. Anh Lê Đức M, sinh năm 1967, trú tại: Tổ 14, phường MX, thành phố TQ; Vắng mặt tại phiên toà

2. Ông Lê Mạnh T1, sinh năm 1958, trú tại: Tổ 14, phường MX, thành phố TQ; Vắng mặt tại phiên toà

3. Bà Phạm Thị T2, sinh năm 1962, trú tại: Tổ 10, phường MX, thành phố TQ; Vắng mặt tại phiên toà

4. Chị Nguyễn Thị Â, sinh năm 1973, trú tại: Tổ 19, phường H, thành phốTQ; Vắng mặt tại phiên toà

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 30 ngày 01/01/2018, Trần Thị T, Lê Đức M, Lê Mạnh T1, Phạm Thị T2 và Nguyễn Thị Â rủ nhau đánh phỏm được thua bằng tiền tại quán nước bà Phạm Thị T3, thuộc khu vực bến phà cũ thuộc tổ 14, phường MX, thành phố TQ. Hình thức đánh bạc cụ thể như sau: Bị cáo T cùng M, Â, T1, T2 dùng 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân, chia đều cho 04 người, mỗi người 09 quân bài, riêng người chia bài được 10 quân bài là người đánh đầu tiên, số quân bài còn lại để làm nọc. Quân bài A được tính 1 điểm, từ quân 2 đến 10 tính điểm tương ứng từ 2 đến 10 các quân bài J, Q, K số điểm lần lượt tính là 11, 12, 13. Mỗi phỏm gồm 03 quân bài giống nhau nhưng khác chất hoặc 03 quân bài có thứ tự liên tiếp liền kề cùng chất. Khi người chia bài đánh quân bài đầu tiên thì người tiếp bên tay phải theo vòng kim đồng hồ có thể lấy quân bài đó để tạo phỏm hoặc lấy lá bài khác ở nọc lên tạo phỏm và đánh quân bài cho người tiếp theo. Trong quá trình đánh bài ai có 03 phỏm thì gọi là “Ù” và kết thúc ván bài, nếu không ai ù thì kết thúc vòng chơi mọi người hạ phỏm để tính điểm những quân bài còn lại không tạo được phỏm. Người có số điểm thấp nhất thì thắng, người có số điểm ít thứ hai về nhì, người có số điểm ít thứ ba về ba, người có số điểm cao nhất về bét, ai không có phỏm gọi là “Cháy” và những người về nhì, ba, bét phải trả tiền cho người thắng số tiền tương ứng là 2.000đ, 4.000đ, 6.000đ, người không có phỏm phải trả cho người thắng 8.000đ. Người nào ù thì những người khác phải trả cho người ù 10.000đ.

Kết quả điều tra xác định bị cáo Trần Thị T cùng với Lê Đức M, Nguyễn Thị Â, Lê Mạnh T1 cùng rủ nhau đánh bạc từ khoảng 13 giờ 30 đến 13 giờ 45 ngày 01/01/2018 thì bị bắt quả tang, số tiền bị cáo cùng các đối tượng khác sử dụng vào việc đánh bạc cụ thể như sau: Trần Thị T sử dụng 30.000đ vào việc đánh bạc, thắng 10.000đ, khi bắt quả tang bị thu giữ số tiền 40.000đ; Lê Đức M sử dụng20.000đ vào việc đánh bạc, thắng 5.000đ, khi bắt quả tang bị thu giữ số tiền  25.000đ; Nguyễn Thị Â không có tiền nhưng cũng tham gia đánh, khi bắt quả tang thắng 7.000đ, bị thu giữ số tiền 7.000đ; Lê Mạnh T1 sử dụng 50.000đ và bị thua hết. Phạm Thị T2 không có tiền đứng ngoài xem, khi thấy T1 hết tiền thì ngồi chơi thay.

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 31/CT-VKSTP ngày 11 tháng 4 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Trần Thị Tvề tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Trần Thị T, đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ luật Hình sự 2015; xử phạt bị cáo Trần Thị T từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ. Không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử lý vật chứng, quyền kháng cáo đối với bị cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Trần Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo Trần Thị T nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuyên Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phi ên tòa, bị cáo Trần Thị T tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh qua biên bản bắt người phạm tội quả tang; lời khai nhân chứng; tang vật thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 40 ngày 01/01/2018, tại quán nước bà Phạm Thị T3, thuộc khu vực bến phà cũ thuộc tổ 14, phường MX, thành phố TQ, Trần Thị T đã có hành vi đánh bạc (đánh phỏm) được thua bằng tiền với Lê Đức M, Nguyễn Thị Â, Lê Mạnh T1 và Phạm Thị T2. Tổng số tiền thu tại chiếu bạc là 72.000 đồng. Trong đó số tiền tham gia đánh bạc của Trần Thị T là 30.000 đồng, thắng 10.000đ, khi bắt quả tang thu giữ 40.000đ. Lê Đức M sử dụng 20.000đ vào việc đánh bạc, thắng 5.000đ, khi bắt quả tang bị thu giữ số tiền 25.000đ; Nguyễn Thị Â không có tiền nhưng cũng tham gia đánh, khi bắt quả tang thắng 7.000đ, bị thu giữ số tiền 7.000đ; Lê Mạnh T1 sử dụng 50.000đ và bị thua hết. Phạm Thị T2 khi tham gia đánh bạc không mang theo tiền. Mặc dù số tiền bị cáo sử dụng để đánh bạc chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng do bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc (Ngày 15/6/2017 bị Công an phường MX, thành phố TQ xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 49, phạt tiền 1.000.000đ về hành vi đánh bạc), do vậy hành vi của bị cáo Trần Thị T đã phạm vào tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn xin được giảm nhẹ hình phạt được chính quyền địa phương xác nhận nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về mức án mà Viện kiểm sát đề nghị: Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến an ninh trật tự tại địa phương, hành vi phạm tội của bị cáo không những gây ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế của gia đình bị cáo mà còn có thể là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Số tiền bị cáo dùng để đánh bạc tuy không lớn nhưng bị cáo đã có 01 tiền sự về tội Đánh bạc (Ngày 15/6/2017 bị Công an phường MX, thành phố TQ xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 49, phạt tiền 1.000.000đ về hành vi đánh bạc), bị cáo không lấy đó làm bài học mà còn tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc. Vì vậy, cần phải có hình phạt nghiêm minh, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục, cải tạo đối với bị cáo, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[6] Bị cáo phạm tội vì mục đích vụ lợi, lẽ ra cần áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định của pháp luật. Nhưng xét thấy bị cáo không có công việc làm ổn định, không có tài sản để đảm bảo cho việc thi hành án vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Đối với hành vi Đánh bạc của Lê Đức M, Nguyễn Thị Â, Lê Mạnh T1 và Phạm Thị T2, Công an thành phố Tuyên Quang đã có quyết định xử phạt hành chính, hình thức phạt tiền mỗi đối tượng 1.000.000 đồng nên HĐXX không đề cập xử lý.

[8] Về vật chứng: Số tiền Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuyên Quang thu giữ tại chiếu bạc là 72.000đ, xác định số tiền này là bị cáo và các đối tượng dùng vào việc đánh bạc nên cần tịch thu để sung quỹ Nhà nước. 52 quân bài tú lơ khơ là công cụ phương tiện phạm tội cần tịch thu tiêu huỷ.

[9] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ luật Hình sự;

- Điều 106, Điều 136, Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên bố: Bị cáo Trần Thị T phạm tội "Đánh bạc".

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị T 01 (một) năm cải tạo không giam giữ. Thời gian Cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Trần Thị T cho Ủy ban nhân dân phường P, thành phố TQ, tỉnh Tuyên Quang giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt Cải tạo không giam giữ.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 52 quân bài tú lơ khơ.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 04/5/2018.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 72.000đ (Bảy mươi hai nghìn đồng).

Toàn bộ số tiền tịch thu sung quỹ Nhà nước, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tuyên Quang đã gửi vào tài khoản số 3941.0.1050177.00000 mở tại Phòng giao dịch – KBNN Tuyên Quang, theo giấy nộp tiền vào ngân sách Nhà nước ngày 05/01/2018.

Về án phí: Bị cáo Trần Thị T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2018/HSST ngày 17/05/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:40/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: đang cập nhật
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về