Bản án 40/2019/HSST ngày 14/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 40/2019/HSST NGÀY 14/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 36/2019/HSST ngày 21/5/2019 theo Quyết đưa vụ án ra xét xử số: 39/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2019 đối với:

Bị cáo Vũ Thị T, sinh năm 1989, tại xã C, huyện H, tỉnh Thái Bình. Nơi ĐKHKTT: Thôn Q, xa T, huyện T, tỉnh Thái Bình; chỗ ở: Khu X, thị trấn T, huyện T, tỉnh Thái Bình; số CCCD: 034189005254; nghề nghiệp: Công nhân điện lực; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; con ông Vũ Văn B và bà Trần Thị V; chồng Nguyễn Văn K (đã ly hôn năm 2017) con: Có 02, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2012; tiền sự: Không; tiền án: Không; Nhân thân: Từ năm 2013 đến năm 2015 là nhân viên điện lực tại Điện lực huyện K, tỉnh Thái Bình. Từ năm 2016 đến khi bị bắt làm việc tại Điện lực huyện T. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/3/2019 đến 15/3/2019 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại nhà trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình. (Bị cáo được trích xuất, có mặt tại phiên toà)

* Người làm chứng:

+ Ông Nguyễn Văn Ư, sinh năm 1960 (Vắng mặt);

Địa chỉ: Thôn M, xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình.

+ Anh Nguyễn Mạnh T, sinh năm 1987 (Vắng mặt);

Địa chỉ: Thôn Q, xã V, huyện T, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 12/03/2019, tại khu vực trước cổng nhà hàng N thuộc thôn M, xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiền Hải bắt quả tang Vũ Thị T đang có hành vi tàng trữ 01 gói được gói bằng giấy trắng có ghi số "7,5" bên trong có 02 túi nilon, 01 túi có chứa 10 viên dạng nén màu xanh một mặt có hình hoa văn và 01 túi có chứa các hạt tinh thể màu trắng trong suốt. Qua giám định, 10 viên dạng nén màu xanh một mặt có hình hoa văn là ma túy, loại MDMA có khối lượng 3,0352 gam và chất tinh thể màu trắng trong suốt là ma túy, loại Ketamine có khối lượng 0,7117 gam.

Quá trình điều tra bị cáo Vũ Thị T khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 11giờ 30 phút ngày 12/3/2019 sau khi hết giờ làm việc buổi sáng Vũ Thị T đi bộ từ chỗ làm (Công ty điện lực huyện T) ra khu vực tượng đài thị trấn T để tìm mua ma túy sử dụng. Tại đây T gặp và mua của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ 01 gói ma túy được gói bằng giấy trắng có ghi số "7,5" bên trong có hai túi nilon, 01 túi có chứa 10 viên dạng nén màu xanh một mặt có hình hoa văn và 01 túi có chứa các hạt tinh thể màu trắng trong suốt là ma túy dạng thuốc lắc và Ketamin với giá 5.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy T bỏ vào ví màu đen và bỏ vaod túi xách của mình rồi đi về. Khoảng 16 giờ10 phút T bắt xe taxi Hoàng Lê để đi xuống nhà hàng N thuộc địa phận thôn M, xã Đ, huyện T với mục đích thuê phòng hát Karaoke để sử dụng ma túy. Khi đi đến cổng của nhà hàng N, T xuống xe Taxi thì bị Công an huyện Tiền Hải phát hiện, yêu cầu T dừng lại để kiểm tra. Công an Tiền Hải đã đưa T về UBND xã Đ để làm việc, tại đây trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương và người làm chứng T đã tự giác lấy trong túi xách màu đen đang đeo bên trong có 01 chiếc ví màu đen, bên trong ví có 01 gói được gói bằng giấy trắng có ghi số "7,5" bên trong có 02 túi nilon, 01 túi có chứa 10 viên dạng nén màu xanh một mặt có hình hoa văn và 01 túi có chứa các hạt tinh thể màu trắng trong suốt và 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng. T khai nhận đó là gói hàng T nhận vận chuyển thuê và 500.000 đồng là tiền công được trả. Trong quá trình điều tra từ ngày 13/3/2019 đến nay Vũ Thị T thay đổi lời khai T khai nhận hành vi tàng trữ trái phép gói ma túy trên với mục đích sử dụng cho bản thân.

Vật chứng của vụ án: Công an huyện Tiền Hải đã lập biên bản quản lý và niêm phong 01 gói được gói bằng giấy trắng có ghi số "7,5" bên trong có 02 túi nilon, 01 túi có chứa 10 viên dạng nén màu xanh một mặt có hình hoa văn và 01 túi có chứa các hạt tinh thể màu trắng trong suốt.

Kết quả giám định đối 01 gói được gói bằng giấy trắng có ghi số "7,5" bên trong có 02 túi nilon, 01 túi có chứa 10 viên dạng nén màu xanh một mặt có hình hoa văn và 01 túi có chứa các hạt tinh thể màu trắng trong suốt thu giữ của Vũ Thị T: Tại bản Kết luận giám định số 68/KLGĐ-PC09 ngày 13/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu gửi giám định thu giữ của Vũ Thị T gồm: 10 viên dạng nén màu xanh một mặt có hình hoa văn là ma túy, loại MDMA có khối lượng 3,0352 gam và chất tinh thể màu trắng trong suốt là ma túy, loại Ketamine có khối lượng 0,7117 gam.

Tại bản Cáo trạng số 38/CT-VKSTH, ngày 20/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình đã truy tố Vũ Thị T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Vũ Thị T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Vũ Thị T mức án từ 03 (Ba) năm đến 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 12/3/2019; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và các vấn đề khác có liên quan đến vụ án.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo Vũ Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo không có ý kiến, không khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội cải tạo, sửa chữa sai lầm sớm trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tiền Hải, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Vũ Thị T tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra cũng như trong giai đoạn truy tố và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ như:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Tiền Hải lập hồi 17giờ 15 phút ngày 12/03/2019 tại UBND xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình.

- Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể do Công an huyện Tiền Hải lập cùng ngày 12/3/2019 tại UBND xã Đ, huyện T.

- Bản kết luận giám định số 68/KLGĐ-PC09 ngày 13/03/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

- Lời khai của những người làm chứng là ông Nguyễn Văn Ư, sinh năm 1960 trú tại thôn M, xã Đ, huyện T và anh Nguyễn Mạnh T sinh năm 1987 ở trú tại thôn Q, xã V, huyện T.

Xét thấy các tài liệu, chứng cứ nêu trên phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo Vũ Thị T về địa điểm, thời gian, hành vi phạm tội.

[3] Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cở sở xác định: Với mục đích để sử dụng cho bản thân, khoảng 17 giờ 00 ngày 12/03/2019, tại khu vực trước cổng nhà hàng N thuộc thôn M, xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình, Công an huyện Tiền Hải phát hiện bắt quả tang Vũ Thị T có hành vi tàng trữ phép 0,7117 gam ma túy loại Ketamine và 3,0352 gam ma túy loại MDMA. Hành vi của bị cáo đã phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250, 251, 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cooca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c) Hêrôin, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

d) Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;

đ) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 05 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;

e) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam; g) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam;

h) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 10 mililít đến dưới 100 mililít;

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

[4] Đánh giá tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng đến an ninh trật tự và an toàn xã hội. Ma túy là chất độc hại gây nghiện, nó hủy hoại sức khỏe của con người, làm suy thoái nòi giống, là nguyên nhân lây truyền căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS đồng thời cũng là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác như trộm cắp tài sản, cướp tài sản, cướp giật tài sản…, vì vậy mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình và hoàn toàn hiểu được tác hại của ma túy nhưng do thiếu bản lĩnh, thiếu trách nhiệm với bản thân nên bị cáo đã thực hiện hành vi phậm tội. Do đó Hội đồng xét xử cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc, cần áp dụng Điều 38 Bộ luật hình sự cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi mà bị cáo đã gây ra. Có như vậy mới thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật nước ta và có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình, xã hội và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[5] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong qúa trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân. Điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của bị cáo còn khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo như đề nghị của đại diệnViện kiểm sát là có căn cứ là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Về nguồn gốc 0,7117 gam ma túy loại Ketamine và 3,0352 gam ma túy, loại MDMA Cơ quan Công an huyện Tiền Hải thu giữ của Vũ Thị T, T khai mua của một thanh niên có hình xăm ở tay không biết họ tên, địa chỉ tại khu vực tượng đài thị trấn Tiền Hải, huyện Tiền Hải với giá 5.000.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiền Hải đã tiến hành điều tra xác minh nhưng không có căn cứ để xử lý.

[8] Về xử lý vật chứng:

Xác định số Hêrôin thu giữ của Vũ Thị T còn lại sau giám định 0,6946 gam ma túy loại Ketamine và 2,4276 gam ma túy loại MDMA hoàn lại sau giám định cùng bao gói là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ là phù hợp với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu philips màu đỏ đen đã qua sử dụng, 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, 01 ví màu đen; 01 túi xách màu đen có tay xách xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo không dùng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Về án phí: Bị cáo Vũ Thị T phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106, Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Thị T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Vũ Thị T 03 (Ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 12/3/2019.

3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 0,6946 gam ma túy loại Ketamine và 2,4276 gam ma túy loại MDMA thu giữ của Vũ Thị T còn lại sau giám định đựng trong phong bì niêm phong số 68/KLGĐ ngày 13/3/2019.

Trả lại cho bị cáo Vũ Thị T 01 điện thoại di động nhãn hiệu philips màu đỏ đen đã qua sử dụng và 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, 01 ví màu đen trên mặt có hình cá sấu và chữ Crocodile và 01 túi xách màu đen có tay xách và dây đeo lưng màu đen mặt trước túi có chữ Vascaca đã qua sử dụng.

(Các vật chứng trên đã được Cơ quan điều tra Công an huyện Tiền Hải thu giữ, chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiền Hải quản lý theo biên bản giao ngày 20/5/2019).

4. Án phí: Bị cáo Vũ Thị T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 14/6/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2019/HSST ngày 14/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:40/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về