Bản án 41/2017/HNGĐ-ST ngày 07/08/2017 về tranh chấp hôn nhân - gia đình ly hôn, nuôi con và cấp dưỡng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LAI VUNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 41/2017/HNGĐ-ST NGÀY 07/08/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN - GIA ĐÌNH LY HÔN, NUÔI CON VÀ CẤP DƯỠNG 

Ngày 07 tháng 8 năm 2017 tại phòng xử án trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 44/2017/TLST- HNGĐ, ngày 23/02/2017 “V/v tranh chấp về hôn nhân gia đình ly hôn, nuôi con và cấp dưỡng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 6 năm 2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Phạm Thanh T - Sinh năm: 1983.

Đa  chỉ:  ấp TH, xã TT, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. (Có mặt tại phiên tòa).

- Bị đơn: Trần Thị Cẩm G - Sinh năm: 1987.

Đa Chỉ:  ấp LK A, xã LH, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 04/02/2017, biên bản về việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chúng cứ và hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn Phạm Thanh T trình bày:

Vào năm 2006 Phạm Thanh T và Trần Thị Cẩm G tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TT, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp ngày 03/12/2007. Vợ chồng có 03 con chung  là Phạm Đức Duy, sinh ngày 26/7/2007; Phạm Công Danh, sinh ngày 06/6/2012 và Phạm Thành Đạt, sinh ngày 06/6/2012, đang do Phạm Thanh T nuôi dưỡng. Trong quá trình sống chung có nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, vợ chồng không hợp nhau, Trần Thị Cẩm G không lo lắng gì cho gia đình, nên tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không thể tiếp tục kéo dài. Nay Phạm Thanh T yêu cầu được ly hôn với Trần Thị Cẩm G; Về con chung Phạm Thanh T yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi 03 con là Phạm Đức Duy, sinh ngày 26/7/2007; Phạm Công Danh, sinh ngày 06/6/2012 và Phạm Thành Đạt, sinh ngày 06/6/2012. Phạm Thanh T không yêu cầu Trần Thị Cẩm G cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản và nợ chung Phạm Thanh T không yêu cầu giải quyết.

Trần Thị Cẩm G đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như để tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, không có lý do chính đáng. Nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt đối với Trần Thị Cẩm G theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự và tại phiên tòa Phạm Thanh T cũng đồng ý xét xử vắng mặt Trần Thị Cẩm G.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Nguyên đơn Phạm Thanh T và bị đơn Trần Thị Cẩm G kết hôn năm 2006 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TT, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp ngày 03/12/2007 theo quy định, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Trong quá trình chung sống có nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, vợ chồng không hợp nhau, Trần Thị Cẩm G không lo lắng gì cho gia đình, nên tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không thể tiếp tục kéo dài. Mặc dù, Tòa án đã kiên trì hòa giải nhưng Phạm Thanh T vẫn cương quyết xin ly hôn với Trần Thị Cẩm G. Phạm Thanh T và Trần Thị Cẩm G đã ly thân từ cuối năm 2015 đến nay, mâu thuẫn đã trầm trọng và ngày càng trầm trọng hơn, tình trạng hôn nhân của Phạm Thanh T và Trần Thị Cẩm G như trên được chứng minh bằng hành động cụ thể là Trần Thị Cẩm G là không chấp hành các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải của Tòa án để được hòa giải đoàn tụ, bỏ mặc không ý kiến gì, đồng thời cố ý không chấp hành pháp luật, mặc dù Tòa án đã động viên nhưng Phạm Thanh T vẫn cương quyết ly hôn, xét thấy mâu thuẫn của Phạm Thanh T và Trần Thị Cẩm G là không thể hàn gắn được, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt, cho nên việc Phạm Thanh T xin ly hôn đã thỏa mãn các điều kiện theo Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, vì vậy Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Phạm Thanh T là có căn cứ.

[2] Về con chung: Hiện nay Phạm Thanh T đang trực tiếp nuôi Phạm Đức Duy, sinh ngày 26/7/2007; Phạm Công Danh, sinh ngày 06/6/2012 và Phạm Thành Đạt, sinh ngày 06/6/2012. Phạm Thanh T yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi ba con, hơn nữa Phạm Đức Duy có nguyện vọng được sống với cha (Phạm Thanh T) theo tờ tường trình ngày 09/02/2017, hiện nay cháu trên 07 tuổi. Thực tế từ trước đến nay Pham Thanh Tú đã nuôi dưỡng chăm sóc chu đáo Phạm Đức Duy, Phạm Công Danh và Phạm Thành Đạt phát triển tốt nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu nuôi con của Phạm Thanh T là phù hợp với Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về cấp dưỡng: Đáng lý ra Trần Thị Cẩm G không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình, nhưng Phạm Thanh T không yêu cầu nên Trần Thị Cẩm G không phải cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt thành vấn đề xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản và nợ chung: Phạm Thanh T không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí: Phạm Thanh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân là có căn cứ, phù hợp với khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 8 Điều 27 của Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 và 83 của Luật hôn và nhân gia đình; khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 8 Điều 27 pháp lệnh án phí lệ phí Tòa án; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa Phạm Thanh T và Trần Thị Cẩm G.

2. Về con chung: Phạm Thanh T được quyền tiếp tục nuôi 03 con là Phạm Đức Duy, sinh ngày 26/7/2007; Phạm Công Danh, sinh ngày 06/6/2012 và Phạm Thành Đạt, sinh ngày 06/6/2012. Trần Thị Cẩm G không phải cấp dưỡng nuôi con.

Phạm Thanh T cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở Trần Thị Cẩm G trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về án phí và tạm ứng án phí: Phạm Thanh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số: 09726, ngày 23/02/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp (Phạm Thanh T đã nộp xong).

4. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (07/8/2017). Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa ngày 07/8/2017 thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

5. Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

355
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2017/HNGĐ-ST ngày 07/08/2017 về tranh chấp hôn nhân - gia đình ly hôn, nuôi con và cấp dưỡng

Số hiệu:41/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lai Vung - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về