Bản án 41/2017/HSST ngày 28/07/2017 về tội chống người thi hành công vụ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 41/2017/HSST NGÀY 28/07/2017 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 28 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở UBND xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 52/2017/HSST ngày 11/7/2017, đối với bị cáo:

Trần Văn T, sinh năm 1988; sinh trú quán: Thôn V, xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; con ông Trần Văn T1 và bà Nguyễn Thị C; có vợ, nhưng đã ly hôn; tiền sự: không, Tiền án: Bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội Cướp giật tài sản, tại bản án số: 09/2013/HSST ngày 07/02/2013. Ngày 13/02/2016, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù của bản án. Bị bắt tạm giam tại Trại tạm giam Kim Chi - Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 28/4/2017 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi liên quan: Ông Trần Văn Q, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương; có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Trần Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương truy tố về hành vi phạm tội như sau: Khoảng gần 13 giờ ngày 24/4/2017, sau khi ăn cơm, uống rượu tại quán bán hàng ăn của ông Nguyễn Viết L, sinh năm 1958 ở cùng xóm; Trần Văn T về nhà mình thuộc thôn Thôn V, xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương ngồi uống nước. Trong lúc ngồi uống nước, T nhìn thấy con dao rựa ở gầm cầu thang trong nhà, T lấy con dao, cầm ở tay và đi ra ngoài, mục đích tìm anh Trần Văn D (là anh họ của T), sinh năm 1986, nhà ở phía đối diện qua đường tỉnh lộ 389 với nhà T để đánh anh D, vì T có mâu thuẫn với anh D. T nhìn thấy anh D đang làm việc ở phía trước cửa nhà, T liền cầm dao chạy về phía anh D. Thấy vậy, anh D bỏ chạy dọc theo đường 389. T chạy đuổi theo anh D, thì ông Lê Văn C, sinh năm 1968, trú quán: Thôn P, xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương điều khiển xe ô tô tải ben, biển số: 34L-6215 đi ngược chiều đến. T cầm dao đi ra giữa đường, ông C liền phanh xe dừng lại. T đi đến dùng dao rựa chém làm vỡ phần kính chắn gió và kính cánh cửa bên lái của xe ô tô biển số: 34L-6215, đồng thời nói: Tao chém chết chúng mày, rồi T đi về nhà. Thấy T bỏ đi, ông C đến Công an xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương trình báo sự việc. Nhận được tin báo của ông C, ông Nguyễn Văn H - Trưởng công an xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương phân công ông Cao Văn Đ - Công an viên của xã đến hiện trường xác minh vụ việc. Sau đó, ông H và ông Đ trực tiếp đến nhà T mời T ra UBND xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương làm việc về hành vi cố ý làm hư hỏng chiếc xe ô tô nêu trên. T không chấp hành, mà đề nghị Công an xã phải có giấy mời. Ông H về trụ sở UBND xã báo cáo vụ việc với Công an huyện K, tỉnh Hải Dương. Lãnh đạo Công an huyện K, tỉnh Hải Dương cử Tổ công tác gồm Đại uý Nguyễn Hùng C, Thiếu uý Nguyễn Quang V và Thiếu uý Hoàng Anh T đến phối hợp với Công an xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương để giải quyết vụ việc. Khoảng hơn 13 giờ cùng ngày, ông H phân công ông Đ và ông Trần Văn Q, sinh năm 1972 là công an viên xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương mặc quần áo công an xã, phối hợp với thiếu uý Hoàng Anh T mặc trang phục Cảnh sát nhân dân cầm theo giấy mời của Công an xã đến nhà T để mời T ra Công an xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương trình bày về hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của ông C. Khi đó, T đang ở quán nhà ông L, nhìn thấy lực lượng công an đến nhà mình, T nhận thức lực lượng công an đến mời T ra trụ sở UBND xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương để khai báo về hành vi vi phạm pháp luật. Do lo sợ bị xử lý, T đã lấy con dao bầu ở quán của ông L chạy lao về phía ông Q đang dừng xe máy ngoài đường. Thấy vậy, ông Q bỏ chạy, chiếc xe máy loại Sirius, biển số: 34D1-202.12 do ông Q đi đến bị đổ xuốngđường. T đuổi kịp ông Q và đẩy ngã ông Q, rồi dùng dao chém một nhát vào chiếc mũ bảo hiểm ông Q đang đội trên đầu, tạo thành vết thủng trên thân mũ có kích thước dài 1,5cm, sâu 01cm. Sau đó, T quay lại dùng viên gạch nhặt ở rìa đường đập và dùng dao chém vỡ đèn pha, bóng pha, nhựa ban thờ và làm thủng cánh yếm của chiếc xe máy biển số: 34D1-202.12. Sau khi làm hư hỏng chiếc xe máy trên, T tiếp tục cầm dao bầu đi về phía ông Đ đang đứng gần đó, ông Đ liền bỏ chạy. Hành vi n u trên của T đã dẫn đến việc Tổ công tác của Công an xã T phối hợp với Công an huyện Kinh Môn không thể giao giấy mời cho T đến UBND xã T để trình bày về hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của ông C.

Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Kinh Môn, kết luận: Tổng giá trị thiệt hại do vỡ kính chắn gió, vỡ kính chắn cửa của xe ô tô biển số: 34L-6215, trị giá 1.891.406 đồng; Tổng giá trị thiệt hại do bị vỡ 01 đèn pha, 01 bóng pha, nhựa ban thờ và thủng cánh yếm của xe máy biển số: 34D1-202.12, trị giá 868.540 đồng; giá trị thiệt hại của chiếc mũ bảo hiểm bị hư hỏng trị giá 12.000 đồng

Tại bản cáo trạng số: 50/VKS-HS ngày 11/7/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Trần Văn T về tội Chống người thi hành công vụ theo quy định tại khoản 1 Điều 257 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố tại bản cáo trạng nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội Chống người thi hành công vụ. Áp dụng: Khoản 1 Điều 257; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 18 tháng đến 21 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 28/4/2017. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Hình sự; điểm a, đ khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu cho tiêu hủy: 01 viên gạch chỉ và 01 mũ bảo hiểm. Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Trần Văn T phải chịu án phí theo quy định.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

XÉT THẤY

Tại phiên toà, bị cáo Trần Văn T khai nhận tội như đã khai nhận tại cơ quan điều tra là:

Khoảng hơn 13 giờ ngày 24/4/2017, tại thôn Thôn V, xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương, tổ công tác của Công an xã T phối hợp với Công an huyện K, tỉnh Hải Dương trong khi thực hiện nhiệm vụ về việc giao giấy mời cho Trần Văn T đến UBND xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương để trình bày về việc T có hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác. T không chấp hành, đã dùng dao bầu chém vào mũ bảo hiểm do ông Trần Văn Q đang đội trên đầu (ông Q là thành viên của tổ công tác), sau đó dùng dao và dùng gạch đập phá chiếc xe máy do ông Q đi đến. Làm cho tổ công tác không thực hiện được nhiệm vụ đã được phân công. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi liên quan, người làm chứng và các tài liệu khác có tại hồ sơ. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Trần Văn T phạm tội Chống người thi hành công vụ, theo quy định tại khoản 1 Điều 257 của Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo về tội phạm trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã dùng vũ lực đối với ông Q, trong khi ông Q cùng tổ công tác đến thực hiện công vụ, nhằm cản trở ông Q và tổ công tác thực thi nhiệm vụ được phân công. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại đến việc thực hiện nhiệm vụ của người đang thi hành công vụ, xâm phạm đến hoạt động của Nhà nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực thi hành nhiệm vụ công; gây mất trật trị an ở địa phương, ảnh hưởng xấu đến tâm lý của những người thực thi công vụ Nhà nước và gây dư luận không tốt trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận biết được việc cản trở, chống đối người thi hành công vụ là trái pháp luật, nhưng do coi thường pháp luật, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo đã bị kết án về tội Cướp giật tài sản, chưa được xóa án tích, nay lại phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần phải xử phạt và áp dụng hình phạt tù, buộc bị cáo cách ly xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội. Tuy nhiên, bị cáo khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình, gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả do bị cáo gây ra nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, Toà án giảm nhẹ một phần về hình phạt cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Gia đình bị cáo bồi thường thiệt hại xong cho ông Trần Văn Q và ông Lê Văn C. Ông Q, ông C không yêu cầu bị cáo T bồi thường gì khác; ông L không yêu cầu bị cáo T phải bồi thường thiệt hại trị giá con dao bầu do bị cáo đã vứt đi nên Tòa án không phải giải quyết.

Ngày 24/4/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Kinh Môn quản lý chiếc xe ô tô biển số: 34L-6215, chiếc xe máy biển số: 34D1-202.12. S,au đó, đã trả lại ông C chiếc xe ô tô biển số: 34L-6215 và trả lại ông Q chiếc xe máy biển số: 34D1-20212. Đối với 01 con dao rựa và 01 con dao bầu, bị cáo T sử dụng vào việc phạm tội, bị cáo đã vứt đi, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Kinh Môn không thu hồi được nên Tòa án không xét.

Đối với 01 viên gạch chỉ, bị cáo sử dụng phạm tội, không có giá trị nên tịch thu cho tiêu hủy. Đối với 01 chiếc mũ bảo hiểm của ông Q, tại phiên tòa, ông Q xác định mũ giá trị thấp, từ chối nhận lại nên tịch thu cho tiêu hủy.

Trong vụ án này, ngày 24/4/2017, bị cáo T có hành vi đập vỡ kính chắn gió và kính chắn cửa của xe ô tô biển số: 34L-6215 của ông Lê Văn C. Hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản nêu trên của T chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, Công an huyện K, tỉnh Hải Dương đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 189/QĐ-XPHC ngày 22/6/2017 đối với T là phù hợp.

Về án phí: Bị cáo bị kết luận phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội Chống người thi hành công vụ.

2. Áp dụng: Khoản 1 Điều 257; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự.

3. Xử phạt bị cáo Trần Văn T 12 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 28/4/2017.

4. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Hình sự; điểm a, đ khoản 2

Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tịch thu cho tiêu hủy: 01 viên gạch chỉ, 01 mũ bảo hiểm

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kinh Môn).

5. Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Trần Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi của mình, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

542
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2017/HSST ngày 28/07/2017 về tội chống người thi hành công vụ

Số hiệu:41/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về