Bản án 41/2019/HNGĐ-ST ngày 10/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRIỆU SƠN – TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 41/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 10/10/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Triệu Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” thụ lý số 212/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2019/QĐXX-ST ngày 25 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

*> Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1995

*> Bị đơn: Anh Đỗ Văn N, sinh năm 1993

Đều có HKTT: Thôn N, xã HT, huyện TS, tỉnh Thanh Hóa, đều có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 26/6/2019, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa. Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Th trình bày: Chị và anh N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 20/01/2015 tại Ủy ban nhân dân xã Hợp Tiến, huyện Triệu Sơn, sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình quan điểm sống không hợp, mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình đã khuyên giải nhiều lần nhưng ngày càng trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 4/2019 đến nay, không ai quan tâm đến ai, cuộc sống của ai người đó tự lo, nay chị Thúy xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nam.

Về con chung: Chị Thúy trình bày vợ chồng có một con chung cháu Đỗ Thảo M, sinh ngày 10/10/2015, trước khi vợ chồng ly thân, năm 2017 chị làm công nhân ở tỉnh Thái Nguyên để con cho chồng và ông bà nội nuôi dưỡng, đến cuối năm 2018 thì anh Nam đi làm điện nước ở tỉnh Quảng Ninh nên gửi con cho ông bà nội nuôi dưỡng, tháng 4/2019 mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, chị mang con về nhờ bà ngoại chăm nuôi dưỡng và thỉnh thoảng về thăm con, nay vợ chồng ly hôn chị Thúy đề nghị được tiếp tục nuôi con và yêu cầu anh Nam cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

Về tài sản: Chị Thúy không yêu cầu Tòa giải quyết.

Đi với bị đơn anh Đỗ Văn N, tại bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa trình bày, anh thừa nhận cơ sở kết hôn và nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng như chị Thúy trình bày là đúng, nay chị Thúy xin ly hôn, anh cũng xét thấy tình cảm vợ chồng không còn anh đồng ý ly hôn với chị Thúy.

Về con chung: Anh thống nhất vợ chồng có một con chung như chị Thúy trình bày là đúng, nay vợ chồng ly hôn, anh cũng có nguyện vọng trực tiếp nuôi con, hiện nay anh làm quản lý tại công ty TNHH Công nghệ H2TC Việt Nam trụ sở tại huyện Gia Lâm, Hà Nội và đang trực tiếp quản lý công việc lắp đặt điện nước cho công trình của công ty tại tỉnh Quảng Ninh, thu nhập bình quân hàng tháng từ 15 đến 17 triệu 1 tháng, anh tuy đi làm xa nhưng gia đình anh bố mẹ anh đều còn trẻ khỏe, gia đình anh kinh tế khá, có điều kiện giúp anh chăm sóc con, bản thân chị Th hiện nay cũng làm công nhân điện tử tại tỉnh Thái Nguyên, thu nhập thấp, gia đình kinh tế khó khăn, chỉ cònthaanhay ốm đau, đang nuôi 1 em nhỏ hơn 10 tuổi, nên chị Th nuôi còn sẽ khó đảm bảo việc chăm sóc nuôi dưỡng tốt, nếu anh được nuôi con anh không yêu cầu chị Th cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Anh N thống nhất như ý kiến chị Th, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến phát biểu của kiểm sát viên:

*> Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán,Thư ký, Hội đồng xét xử:

- Thẩm phán: Xác định đúng quan hệ pháp luật, đúng tư cách người tham gia tố tụng, tiến hành các hoạt động tố tụng như ra thông báo thụ lý, thông báo phiên họp, hòa giải, tiến hành xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ đúng trình tự tố tụng.

- Thư ký: Tống đạt các văn bản tố tụng, giao hồ sơ cho VKS nghiên cứu đúng quy định.

- HĐXX: Đúng thành phần, thời gian, địa điểm ghi trong quyết định xét xử, xét hỏi rõ ràng, đúng trọng tâm, dành nhiều thời gian cho đương sự trình bày.

*> Việc chấp hành pháp luật của đương sự: Cơ bản đương sự chấp hành đúng quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ.

*> Về nội dung:

Về hôn nhân: Đề nghị HĐXX căn cứ Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Th.

Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình, điều kiện công việc, thu nhập của của vợ chồng, điều kiện thực tế gia đình của mỗi bên, giao cháu M cho anh N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, anh N không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét.

Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

Phần tranh luận:

Ý kiến nguyên đơn, yêu cầu được trực tiếp nuôi con, nếu không được trực tiếp nuôi con phải được quyền thăm nuôi con.

Ý kiến bị đơn, yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Th và anh Đỗ Văn N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 20/01/2015 tại Ủy ban nhân dân xã Hợp Tiến, huyện Triệu Sơn,nên là hôn nhân hợp pháp, quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, nên vợ chồng to tiếng xúc phạm lẫn nhau gia đình hai bên đã khuyên giải nhiều lần nhưng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 4/2019 đến nay, không ai quan tâm đến ai, quá trình hòa giải và tại phiên tòa các đương sự đều xác định tình cảm vợ chồng đã trầm trọng, không thể đoàn tụ được nữa và thuận tình đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn, sự thuận tình ly hôn của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện phù hợp với tình trạng hôn nhân của vợ chồng phù hợp với kết quả xác minh của Tòa án, phù với quy định tại Điều 55 Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét công nhận sự thuận tình ly hôn của các đương sự.

[2] Về con chung: Vợ chồng thống nhất có một con chung cháu Đỗ Thảo M, sinh ngày 10/10/2015 và vợ chồng đều có yêu cầu trực tiếp nuôi con, anh N không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, chị Th yêu cầu cấp dưỡng nuôi con 2.000.000đ/tháng.

Xét thấy yêu cầu trực tiếp nuôi con của vợ chồng là chính đáng và đều đủ điều kiện nuôi con nhưng vợ chồng chỉ có một con chung do đó cần xem xét điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, công việc, thu nhập và hoàn cảnh thực tế của mỗi bên để giao người trực tiếp nuôi con đảm bảo tốt nhất việc nuôi dưỡng, chăm sóc và tâm sinh lý con trẻ.

Xét yêu cầu trực tiếp nuôi con của chị Th: Chị Th hiện làm công nhân điện tử tại tỉnh Thái Nguyên thu nhập bình quân 7 triệu đồng 1 tháng, gia đình chị Th qua xác minh hoàn cảnh kinh tế khó khăn, chỉ còn mình mẹ hay ốm đau và đang nuôi 1 em nhỏ, chị Th tuy có công việc và thu nhập ổn định nhưng làm việc xa nhà, phải thuê nơi ở, ăn uống đi lại và các chi phí sinh hoạt khác, ngoài ra hàng tháng còn phải gửi tiền phụ giúp mẹ nuôi em ăn học như chị Th trinh bày tại Tòa, với mức thu nhập, điều kiện làm việc theo ca kíp, xa nhà, đi lại khó khăn, gia đình kinh tế khó khăn,neo người, như vậy nếu giao chị Th trực tiếp nuôi con sẽ khó khăn cho chính chị Th và gia đình trong việc chăm sóc giáo dục con tốt.

Gia đình anh N có hai chị em, chị gái đã đi lấy chồng ở riêng, từ khi vợ chồng kết hôn ở chung với bố mẹ anh N, bố mẹ anh N còn trẻ, khỏe điều kiện kinh tế khá, tự nguyện giúp đỡ anh N nuôi con, bản thân anh N tuy làm công nhân ở xa nhưng thu nhập cao 15.000.000đ 1 tháng, thời gian làm việc không khắt khe và từ năm 2017 đến nay, chị Th đi làm xa nhà, cháu Thảo M ở với anh N và ông bà nội, đến cuối tháng 4/2019 mới ở với bà ngoại nhưng hàng tuần thứ bảy chủ nhật đều được ông bà nội đón về chăm sóc, như vậy công việc, thu nhập của anh N cũng như điều kiện kinh tế, gia đình anh N là đảm bảo hơn, cháu Thảo M đã trên 4 tuổi, nghĩ nên giao cháu Thảo M cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng sẽ đảm bảo tốt hơn việc chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng hơn nữa hai gia đình gần nhà nhau,(cùng thôn) điều kiện đi lại thăm nom cháu M thuận tiện, nên việc giao con chung của vợ chồng cho anh N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, không làm ảnh hưởng đến tâm sinh lý, việc học tập của còn trẻ, mặt khác khi cháu M mới chưa được hai tuổi chị Th đã giao con cho chồng và ông bà nội nuôi dưỡng để đi làm công nhân ở tỉnh Thái Nguyên như chị Th thừa nhận tại phiên tòa, điều nay thể hiện trách nhiệm của mẹ đối với con nhỏ chưa tốt.

Từ những phần tích trên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu trực tiếp nuôi con của anh N, giao cháu Đỗ Thảo M, cho anh N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, chị Th không phải cấp dưỡng nuôi con, vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, chị Th được quyền và nghĩa vụ đi lại, thăm nom chăm sóc con chung, không ai được cản trở nhưng các bên không được lợi dụng việc nuôi con, thăm con để cản trở hoặc làm ảnh hưởng xấu đến việc trông nom chăm sóc, giáo dục con.

[3] Về tài sản: Các đương sự đều thống nhất không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lý lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 4 Điều 147, Điều 271, 273, 280 của Bộ luật tố Tụng dân sự; Điều 55, 57, 81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý về án phí, lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Th và anh Đỗ Văn N.

Về con chung: Sau khi án có hiệu lực pháp luật, buộc chị Nguyễn Thị Th phải giao cháu Đỗ Thảo M, sinh ngày 10/10/2015 cho anh Đỗ Văn N trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu, chị Th không phải cấp dưỡng nuôi con, vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, chị Th được quyền và nghĩa vụ đi lại, thăm nom chăm sóc con chung, không ai được cản trở nhưng không được lợi dụng việc nuôi con, thăm con để cản trở hoặc làm ảnh hưởng xấu đến việc trông nom chăm sóc, giáo dục con.

Về tài sản: Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, không yêu cầu tòa giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Th phải chịu 300.000đ án phí ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng theo biên lai số 3590 ngày 26/6/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Triệu Sơn, chị Th đã nộp đủ án phí.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án đượct hực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Quyền kháng cáo, kháng nghị: Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2019/HNGĐ-ST ngày 10/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:41/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Triệu Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về