Bản án 41/2019/HNGĐ-ST ngày 16/09/2019 về yêu cầu ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẤT ĐỎ, TỈNH BÀ RỊA –VŨNG TÀU

BẢN ÁN 41/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2019 VỀ YÊU CẦU LY HÔN

Ngày 16-9-2019, tại trụ sở TAND huyện Đất Đỏ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 106/2019/TLST-HNGĐ ngày 08-4-2019 về tranh chấp “yêu cầu ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2019/QĐXX-ST ngày 09-8-2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 38/QĐ ngày 28-8-2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Bùi Thị T, sinh năm: 1979 (có mặt).

Đa chỉ: tổ 1 ấp B, xã L, thành phố R, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

2. Bị đơn: ông Nguyễn Hữu N, sinh năm: 1975.

Đa chỉ: ấp H, xã T, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (ông N vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 04-4-2019 và quá trình tố tụng tại tòa án, nguyên đơn bà Bùi Thị T trình bày: bà T và ông N chung sống với nhau từ năm 2001, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T trên cơ sở tự nguyện không bị ai ép buộc, có tổ chức lễ cưới. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông N không quan tâm đến gia đình, thường hay uống rượu rồi đánh đập bà T và dùng lời lẽ thiếu tế nhị xúc phạm gia đình bà T, do không chịu nổi tính tình của ông N nên vợ chồng ly thân từ cuối năm 2011. Trong thời gian ly thân vợ chồng có gặp nhau để hàn gắn nhưng không thành. Nay vì tình cảm vợ chồng không còn nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông N.

Về con chung: bà T ông N có 02 con tên Nguyễn Minh N – sinh ngày 24-3-2002 và Nguyễn Minh H – sinh ngày 16-6-2006, hiện các con đang ở với bà T từ lúc vợ chồng ly thân. Nay ly hôn bà T xin trực tiếp nuôi các con và không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: bà T khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với ông Nguyễn Hữu N vắng mặt tại phiên tòa: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt Thông báo thụ lý vụ án cho ông N và giấy triệu tập ông N đến Tòa án để ghi nhận ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà T nhưng ông N không đến và cũng không có văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu ly hôn của bà T và không có yêu cầu phản tố.

- Tại Biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 05-8-2019 của TAND huyện Đất Đỏ, nơi vợ chồng bà T ông N sinh sống trước đây, được biết quá trình chung sống vợ chồng hay xảy ra mâu thuẫn do ông N hay uống rượu về đánh đập bà T và địa phương hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Hiện nay bà T ông N không còn sống chung tại địa phương, bà T về sống ở xã L cùng với hai con.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Về tố tụng:

+ Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự khi tiến hành các hoạt động tố tụng, xác định đúng thẩm quyền, tư cách tham gia tố tụng của các đương sự trong vụ án và xác định đúng quan hệ tranh chấp của vụ án.

+ Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án.

+ Bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định, không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, không tham gia phiên tòa sơ thẩm. Do vậy, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, ý kiến trình bày của đương sự và kết quả tranh luận tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Bà Bùi Thị T và ông Nguyễn Hữu N chung sống có đăng ký kết hôn vào năm 2001 tại UBND xã T, huyện Đất Đỏ. Nay, bà T yêu cầu ly hôn với ông N và yêu cầu được nuôi con nên xác định đây là vụ án hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của ông N tại xã T, huyện Đất Đỏ nên Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Bị đơn ông Nguyễn Hữu N đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên toà nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 BLTTDS xét xử vắng mặt ông N.

[2] Về nội dung:

Bà Bùi Thị T và ông Nguyễn Hữu N chung sống với nhau và đăng ký kết hôn vào năm 2001 nên hôn nhân này hợp pháp. Trong quá trình chung sống, bà T nhận thấy mâu thuẫn gia đình đã thật sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn. Còn ông N cố tình không đến Tòa án. Điều này chứng tỏ ông N không có thiện chí trong việc giải quyết mâu thuẫn gia đình và hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông N.

- Về con chung: bà T ông N có 02 người con tên Nguyễn Minh N – sinh ngày 24-3-2002 và Nguyễn Minh H – sinh ngày 16-6-2006, hiện các con đang ở với bà T từ lúc vợ chồng ly thân. Quá trình giải quyết vụ án, bà T yêu cầu được nuôi dưỡng các con và không ghi nhận được ý kiến của ông N về nuôi con chung, nhưng xét thấy các con có nguyện vọng muốn được ở với bà T nghĩ nên giao cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Việc bà T không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con là ý chí tự nguyện của bà T và không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Về tài sản chung và nợ chung: bà T xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu giải quyết.

[3] Về án phí: bà T phải chịu án phí theo quy định, ông N không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 227; Điều 228; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Bùi Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Hữu N.

2. Về nuôi con chung: bà Bùi Thị T được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Nguyễn Minh N – sinh ngày 24-3-2012 và Nguyễn Minh H – sinh ngày 16-6- 2006. Ông Nguyễn Hữu N không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông N được quyền thăm nom, chăm sóc con, không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: không có nên không xét đến.

4. Về án phí: bà Bùi Thị T phải chịu 300.000đ án phí HNGĐ-ST. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 010712 ngày 04-4-2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đất Đỏ. Bà T đã nộp đủ án phí. Ông N không phải chịu án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đối với đương sự vắng mặt thời hạn trên được tính từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2019/HNGĐ-ST ngày 16/09/2019 về yêu cầu ly hôn

Số hiệu:41/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về