Bản án 41/2019/HSST ngày 28/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 41/2019/HSST NGÀY 28/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 45/2019/HSST ngày 09 tháng 5 năm 2019, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2019, đối với bị cáo:

Đng Văn Th; sinh năm 1993, tại xã Gi, huyện Gi, Nam Định; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm L, xã Gi, huyện Gi, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; giới tính: Nam; con ông: Đặng Văn Th và bà Vũ Thị Nh; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 06/3/2019, Công an xã Bạch Long huyện Giao Thủy ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/3/2019 đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Chị Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1989

Địa chỉ: Tổ dân phố C, thị trấn Q, huyện Gi, tỉnh Nam Định

- Người chứng kiến: Ông Phạm Văn Đ; sinh năm 1956

Địa chỉ: Xóm L, xã Gi, huyện Gi, tỉnh Nam Định

Tại phiên tòa: Vắng mặt chị Tr và Ông Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12h 30giờ, ngày 08/3/2019, Đặng Văn Th đi bộ từ xã Gi đến Thị trấn Q, huyện Giao T với mục đích trộm cắp tài sản lấy tiền tiêu xài. Khi đi qua khu vực tổ dân phố C, TT Q, huyện Gi, Th phát hiện thấy 01 xe máy nhãn hiệu HONDA loại xe Future màu sơn đen – trắng, BKS: 18G1-00911 của chị Nguyễn Thị Tr đang dựng trên mặt đê. Quan sát thấy không có người trông coi, chìa khóa còn cắm ở ổ điện, Th tiến đến chỗ chiếc xe đang dựng, ngồi lên xe nổ máy rồi điều khiển xe về đến xã Giao Yến để tìm nơi tiêu thụ thị bị lực lượng Công an huyện Giao Thủy phát hiện, bắt giữ đưa về Công an huyện Giao Thủy, tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Giao Thủy Đặng Văn Th đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp của mình như đã nêu trên.

Ngày 12/03/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Giao Thủy đã định giá xác định: “01 xe máy mang nhãn hiệu HONDA FUTURE, BKS: 18G1-009.11, màu sơn xám – đen – trắng có trị giá 8.100.000 đồng”.

Bản cáo trạng số 45/CT-VKS ngày 08/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định đã truy tố Đặng Văn Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên sau khi xem xét, phân tích đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo giữ nguyên quan điểm như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt Đặng Văn Th từ 12 đến 15 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Tr đã nhận lại đầy đủ tài sản bị trộm cắp và không có yêu cầu gì nên trách nhiệm dân sự không đặt ra.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bị cáo nói lời sau cùng, bị cáo trình bày bản thân nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 12giờ 30 phút, ngày 08/3/2019, Đặng Văn Th đi bộ đến khu vực tổ dân phố C, TT Q đã có hành vi lén lút lấy trộm 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA FUTURE BKS: 18G1-009.11 trị giá 8.100.000 đồng của chị Nguyễn Thị Tr đang dựng trên mặt đê mang đi tiêu thụ thì bị Công an huyện Giao Thủy phát hiện, bắt giữ. Do đó bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an tại địa phương. Nay cần xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự mới giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt cho gia đình và xã hội cũng như đáp ứng công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với bị cáo như sau:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử thấy cần phải xử lý bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn, buộc bị cáo phải tập trung cải tạo một thời gian nhất định đủ để khi trở về cộng đồng là công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo chưa có gia đình riêng, không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Chị Tr đã nhận lại đầy đủ tài sản bị trộm cắp và không yêu cầu gì nên không xem xét trách nhiệm dân sự.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Đặng Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt Đặng Văn Th 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 08/3/2019.

2. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đặng Văn Th phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2019/HSST ngày 28/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:41/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về