Bản án 42/2017/HNGĐ-ST ngày 06/09/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 42/2017/HNGĐ-ST NGÀY 06/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 06 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu xét xử sơ thẩm công Ki vụ án thụ lý số: 89/2017/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2017/QĐXX-ST ngày 27 tháng 7 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 18/2017/QĐST - HNGĐ ngày 17 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1989;

Địa chỉ cư trú: Ấp R, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Phan Văn K, sinh năm 1985;

Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 22 tháng 3 năm 2017 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Phan Văn K quen biết, tìm hiểu và tổ chức lễ cưới vào năm 2007, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh vào ngày 19 tháng 5 năm 2008. Anh chị chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh K thường xuyên uống rượu, đánh bài, chị có khuyên can nhiều lần nhưng anh K không từ bỏ mà còn kiếm chuyện gây gỗ, đánh đập chị. Đến ngày 21-10-2016 chị bỏ về nhà ba mẹ ruột chị ở Ấp R, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh sống và ly thân từ đó cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị yêu cầu ly hôn với anh Phan Văn K.

Về con chung: Chị và anh K có hai con chung tên Phan Minh K, sinh ngày 01 tháng 10 năm 2008 và Phan Văn K, sinh ngày 17 tháng 11 năm 2013, hiện cháu Phan Minh K đang sống chung với anh K, cháu Phan Văn K đang sống chung với chị. Nay ly hôn chị yêu cầu nuôi cháu Phan Văn K, giao cháu Phan Minh K cho anh K nuôi và chị không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

Bị đơn anh Phan Văn K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị L trình bày cơ sở hôn nhân giữa anh và chị L như trên là đúng. Trong quá trình chung sống anh và chị L có xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp nhau, đôi lúc anh cũng có uống rượu và chơi đánh bài nên vợ chồng có gây gỗ nhau. Đến tháng 10 năm 2016 chị L bỏ về nhà cha mẹ ruột ở ấp R, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh sống và ly thân từ đó cho đến nay. Nay anh vẫn còn thương vợ, anh muốn vợ chồng được đoàn tụ để lo cho con nên anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh và chị L có hai con chung tên Phan Minh K, sinh ngày 01 tháng 10 năm 2008 và Phan Văn K, sinh ngày 17 tháng 11 năm 2013, hiện cháu Phan Minh K đang sống chung với anh, cháu Phan Văn K đang sống chung với chị L. Nếu ly hôn anh yêu cầu nuôi cháu Phan Minh K, giao cháu Phan Văn K cho chị L nuôi và anh không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu tham gia phiên Tòa trình bày:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử: Thẩm phán, thư ký thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, việc thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã chấp hành và thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh K đã được tống đạt giấy triệu tâp hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là đúng theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu chưa thấy vấn đề vi phạm tố tụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử theo quy định.

Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L, cho chị L được ly hôn với anh K. Áp dụng Điều 81, Điều 82 và Điều 83 giao cháu Phan Minh K, sinh ngày 01 tháng 10 năm 2008 cho anh K tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, giao cháu Phan Văn K, sinh ngày 17 tháng 11 năm 2013 cho chị L tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ghi nhận chị L, anh K không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết. Về nợ chung không có nên không đặt ra giải quyết. Về án phí hôn nhân sơ thẩm chị L phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Phan Văn K đã được Tòa án tống đạt, niêm yết giấy triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh K theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự là phù hợp theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh K trên cơ sở tự nguyện và đi đến hôn nhân từ năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh vào ngày 19 tháng 5 năm 2008, nên hôn nhân của chị L, anh K là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Theo chị L mâu thuẫn phát sinh là do anh K thường xuyên uống rượu, chơi đánh bài và kiếm chuyện gây gỗ, đánh đập chị. Tại biên bản lấy lời Ki, biên bản hòa giải tại Tòa anh K thừa nhận có uống rượu và chơi đánh bài nên vợ chồng thường xuyên gây gỗ nhau, nhưng anh vẫn còn thương vợ và yêu cầu đoàn tụ. Quá trình xác minh cho thấy, việc anh K thường xuyên uống rượu, chơi đánh bài và gây gỗ với chị L là có, hiện tại cả hai anh chị đã sống ly thân từ tháng 10-2016 cho đến nay. Trong thời gian ly thân cả hai không có giải pháp khắc phục hàn gắn tình cảm vợ chồng. Mặt khác, Tòa án tống đạt giấy triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh K không đến để tham gia hoà giải và xét xử. Điều đó chứng tỏ thiện chí mong muốn đoàn tụ của anh K là không có, mà mục đích là để kéo dài gây khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án. Do đó, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu xin đoàn tụ của anh K. Căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L, cho chị L được ly hôn với anh K là phù hợp.

[3] Về con chung: Chị L và anh K xác định có hai con chung tên Phan Minh K, sinh ngày 01 tháng 10 năm 2008 và Phan Văn K, sinh ngày 17 tháng 11 năm 2013. Từ ngày ly thân đến nay, cháu Phan Minh K sống chung với anh K, còn cháu Phan Văn K sống chung với L. Cả hai anh chị thống nhất giao cháu Phan Minh K cho anh K nuôi, giao cháu Phan Văn K cho chị L nuôi dưỡng. Mặt khác, cháu Phan Minh K đã trên 7 tuổi, qua làm việc cháu có nguyện v ng mong muốn được sống với anh K. Nên việc giao cháu Phan Minh K cho anh K tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, giao cháu Phan Văn K cho chị L tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp theo quy định tại Điều 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình. Ghi nhận chị L, anh K không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung: Chị L và anh K thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết. 

[5] Về nợ chung: Chị L và anh K trình bày không có nên không đặt ra giải quyết

[6] Về án phí: Chị L phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn thị kim L với anh Phan Văn K.

Chị Nguyễn Thị Kim L được ly hôn với anh Phan Văn K.

2. Về con chung: Giao cháu Phan Văn K, sinh ngày 17 tháng 11 năm 2013 cho chị Nguyễn Thị Kim L tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, giao cháu Phan Minh K, sinh ngày 01 tháng 10 năm 2008 cho anh Phan Văn K tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Chị Nguyễn Thị Kim L và anh Phan Văn K không phải cấp dưỡng nuôi con do hai anh chị không yêu cầu.

Chị Nguyễn Thị Kim L và anh Phan Văn K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Kim L và anh Phan Văn K thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị Kim L và anh Phan Văn K trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

5. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kim L phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm Hôn nhân và gia đình, khấu trừ tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0020724 ngày 22 tháng 3 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Chị L đã nộp xong tiền án phí hôn nhân sơ thẩm Anh Phan Văn K không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Chị L có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh K có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2017/HNGĐ-ST ngày 06/09/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:42/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về