Bản án 42/2017/HNGĐ-ST ngày 31/07/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HUỆ, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 42/2017/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 31 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 72/2017/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2017 về “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 35/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị T - Sinh năm 1986 - Địa chỉ: ấp 3, xã T, huyện D, tỉnh Long An. (vắng mặt - có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Lê Minh M - Sinh năm 1979 - Địa chỉ: ấp 3, xã T, huyện D, tỉnh Long An. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30/3/2017, các văn bản tiếp theo nguyên đơn bà Huỳnh Thị T trình bày và yêu cầu: Bà và ông Lê Minh M cưới nhau vào tháng 4 năm 2007, sau đó đăng ký lại việc kết hôn vào ngày 28/4/2008 (giấy chứng nhận kết hôn số 42, quyển số 01/2008) tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện D tỉnh Long An. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 3/2016 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên gây gỗ với nhau, lâu dần dẫn đến mất hạnh phúc gia đình. Bà và ông M đã ly thân từ tháng 02/2017 cho đến nay và mối quan hệ vợ chồng chấm dứt.

Về hôn nhân: Bà yêu cầu ly hôn với ông Lê Minh M.

Về nuôi con chung: Bà và ông M có 01 con chung: Lê Văn C, sinh ngày 02/5/2008, hiện đang sống chung bà T. Khi ly hôn con đã trên 7 tuổi sống theo cha hoặc mẹ thì người đó có trách nhiệm nuôi bên còn lại không phải cấp dưỡng.

Về chia tài sản chung: Đã tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này có tranh chấp bà T sẽ yêu cầu giải quyết bằng một vụ án khác

Về nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Lê Minh M được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Nguyên đơn bà T, có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bà T. Tại đơn xin xét xử vắng mặt ngày 19/6/2017, bà T vẫn giữ yêu cầu ly hôn với ông Lê Minh M, yêu cầu giải quyết việc nuôi con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Bà Huỳnh Thị T khởi kiện yêu cầu ly hôn ông Lê Minh M có hộ khẩu thường trú và hiện cư trú tại ấp 3, xã T, huyện D, tỉnh Long An. Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ tỉnh Long An thụ lý giải quyết vụ án là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Về tố tụng: Ông Lê Minh M được tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng của Tòa án nhưng ông M không có ý kiến cũng như không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho quyền và lợi ích chính đáng của ông, không có mặt để tham gia hòa giải và vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét đơn khởi kiện của bà Huỳnh Thị T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Ông M không được quyền khiếu nại về việc cung cấp chứng cứ, tham gia hòa giải và tham gia phiên tòa vì ông đã không có mặt theo thông báo và giấy triệu tập của Tòa án, không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông theo quy định pháp luật.

[3] Nguyên đơn bà Huỳnh Thị T vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn ông Lê Minh M vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào chứng cứ có trong hồ sơ vụ án xét đơn khởi kiện của bà T theo khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[4] Về hôn nhân: Bà T và ông M chung sống với nhau như vợ chồng từ tháng 4 năm 2007, có đăng ký kết hôn  ngày 28/4/2008 ( giấy chứng nhận kết hôn số 42, quyển số 01/2008) tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện D tỉnh Long An. Quan hệ hôn nhân của bà T và ông M là quan hệ hôn nhân hợp pháp kể từ ngày đăng ký kết hôn theo Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 và năm 2014. Quá trình chung sống không hạnh phúc nên bà T và ông M sống ly thân với nhau từ tháng 02/2017 đến nay.

[5] Xét việc bà T yêu cầu ly hôn với ông M: Bà T và ông M có mâu thuẩn vợ chồng xảy ra từ tháng 3/2016 là do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, gây gỗ thường xuyên dẫn đến mất hạnh phúc gia đình không sống chung với nhau được phải sống ly thân từ tháng 2/2017 cho đến nay và mối quan hệ vợ chồng chấm dứt, cho thấy mâu thuẩn vợ chồng bà T và ông M đã trầm trọng cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận theo yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông M là phù hợp theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

[6] Về yêu cầu nuôi con chung: Cháu Lê Văn C, sinh ngày 02/5/2008, hiện đang sống chung bà T, khi cha mẹ ly hôn cháu Chương có nguyện vọng sống theo mẹ (bà T) nên giao cháu Chương cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Bà T không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con là tự nguyện nên không xem xét là phù hợp Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

7] Về chia tài sản chung và nợ chung: Bà T cho rằng đã tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết và ông M cũng không có văn bản trình bày về tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này. Nếu sau này phát sinh tranh chấp sẽ tách ra giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miển, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án xét thấy: Bà T là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp. Ông M không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 9, 51, 56, 81, 82, 107, 110, 116 và 118 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Bà Huỳnh Thị T được ly hôn với ông Lê Minh M.

2. Về nôi con chung:Giao con chung Lê Văn C, sinh ngày 02/5/2008, hiện đang sống chung bà T cho bà Ttrực tiếp nuôi dưỡng (theo nguyện vong của con chung). Ông Lê Minh M không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông M được quyền tới lui, thăm nom và chăm sóc con chung. Khi cần thiết, vì lợi ích của con chung, ông M và bà T có quyền yêu cầu thay đổi tình trạng nuôi con chung và việc cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

3.Về chia tài sản chung và nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Huỳnh Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bà T đã nộp (biên lai thu số 0007870 ngày 11/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Huệ). Bà T đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2017/HNGĐ-ST ngày 31/07/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:42/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Huệ - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về