Bản án 42/2019/HNGĐ-ST ngày 11/03/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 42/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/03/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 11 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 242/2018/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2018, về ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 200/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 01 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:Anh Nguyễn Vũ H, sinh năm 1985; cư trú tại thôn B L, xã M H, huyện P M, tỉnh Bình Định; có mặt.

- Bị đơn: Chị Phạm Thị N, sinh năm 1985; cư trú tại thôn Đ T, xã M H, huyện P M, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 06 tháng 11 năm 2018, tại lời khai và tại phiên tòa nguyên đơn anh Nguyễn Vũ H trình bày: Anh và vợ của anh là chị Phạm Thị N đăng ký kết hôn vào ngày 28 tháng 4 năm 2008 tại Ủy ban nhân dân xã M H, huyện P M, tỉnh Bình Định. Trước khi kết hôn, anh và chị Phạm Thị N tìm hiểu một thời gian rồi tự nguyện đăng ký kết hôn chứ không ai ép buộc, lừa dối. Sau khi kết hôn vợ chồng anh sống chung với nhau tại nhà cha, mẹ của anh nhưng vợ chồng chỉ sống hạnh phúc một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn xuất phát từ việc vợ chồng của anh có quá nhiều bất đồng quan điểm trong công việc hằng ngày. Vì mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên tháng 5 năm 2017 chị Phạm Thị N bỏ về nhà cha, mẹ của chị Phạm Thị N sống cho đến nay. Việc vợ chồng của anh mâu thuẫn đã được cha, mẹ hai bên hòa giải nhưng vợ chồng của anh vẫn không thể nào đoàn tụ. Nay quan hệ hôn nhân của vợ chồng anh đã mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không còn tình cảm gì với nhau, mục đích của hôn nhân không đạt được nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Phạm Thị N .

Trong thời gian chung sống vợ chồng anh không có con chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung của vợ chồng anh. Hiện nay vợ chồng anh không phải thực hiện nghĩa vụ chung về tài sản nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra anh không trình bày và yêu cầu gì thêm.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định đã tiến hành tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hợp lệ cho bị đơn chị Phạm Thị N tham gia tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng bị đơn chị Phạm Thị N không nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn anh Nguyễn Vũ H và cũng không giao nộp các tài liệu, chứng cứ; không có yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập. Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định tiến hành tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoàn phiên tòa hợp lệ cho bị đơn chị Phạm Thị N tham gia tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng bị đơn chị Phạm Thị N cũng không có mặt tại phiên tòa mà không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Đối với Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; nguyên đơn thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Nguyễn Vũ H, cho anh Nguyễn Vũ H được ly hôn với chị Phạm Thị N ; anh Nguyễn Vũ H và chị Phạm Thị N không có con chung nên không xem xét giải quyết; anh Nguyễn Vũ H không tranh chấp về việc chia tài sản chung, nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng và yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ về tài sản nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.

Các tài liệu, chứng cứ do các đương sự giao nộp gồm: Giấy chứng nhận kết hôn số 21 quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã M H, huyện P M, tỉnh Bình Định chứng nhận ngày 28 tháng 4 năm 2008; bản sao sổ hộ khẩu của hộ gia đình anh Nguyễn Vũ H ; bản photocoppy giấy chứng minh nhân dân của anh Nguyễn Vũ H, chị Phạm Thị N .

Nguyên đơn anh Nguyễn Vũ H và bị đơn chị Phạm Thị N đăng ký kết hôn vào ngày 28 tháng 4 năm 2008 tại Ủy ban nhân dân xã M H, huyện P M, tỉnh Bình Định. Anh Nguyễn Vũ H yêu cầu ly hôn với chị Phạm Thị N; chị Phạm Thị N không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Vũ H . Anh Nguyễn Vũ H và chị Phạm Thị Ng không có con chung. Anh Nguyễn Vũ H không tranh chấp về việc chia tài sản chung, nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng và yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ về tài sản.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Tranh chấp giữa các đương sự trong vụ án là tranh chấp về “Ly hôn” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tại thời điểm thụ lý vụ án và hiện nay bị đơn chị Phạm Thị N cư trú tại thôn Đ T, xã M H, huyện P M, tỉnh Bình Định. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn chị Phạm Thị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt mà không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn chị Phạm Thị N .

[3] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Vũ H và chị Phạm Thị N đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M H, huyện P M, tỉnh Bình Định theo Giấy chứng nhận kết hôn số 21/2008, quyển số 01 ngày 28 tháng 4 năm 2008. Việc kết hôn giữa anh Nguyễn Vũ H g và chị Phạm Thị N tuân theo các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên hôn nhân giữa anh Nguyễn Vũ H và chị Phạm Thị N là hợp pháp. Anh Nguyễn Vũ H yêu cầu ly hôn với chị Phạm Thị N, vì anh Nguyễn Vũ H cho rằng sau khi kết hôn vợ chồng của anh sống hạnh phúc một thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên đến tháng 5 năm 2017 chị Phạm Thị N bỏ về nhà cha mẹ của chị Phạm Thị N sống cho đến nay. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoàn phiên tòa cho chị Phạm Thị N tham gia tố tụng với mục đích tiến hành hòa giải để vợ chồng anh Nguyễn Vũ H và chị Phạm Thị N đoàn tụ, xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng chị Phạm Thị N không có ý kiến gì đối với yêu cầu ly hôn của anh Nguyễn Vũ H và không đến Tòa án mà không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo bà Trần Thị Miên là mẹ đẻ của chị Phạm Thị N thì sau khi kết hôn vợ chồng anh Nguyễn Vũ H, chị Phạm Thị N sống chung với gia đình của anh Nguyễn Vũ H, trong quá trình chung sống vợ chồng anh Nguyễn Vũ H, chị Phạm Thị N mâu thuẫn như thế nào thì bà Trần Thị M không biết nhưng vì anh Nguyễn Vũ H, chị Phạm Thị N không có con chung nên cuộc sống không được hạnh phúc; thời gian gần đây chị Phạm Thị N về sống chung với gia đình của bà Trần Thị M ; chị Phạm Thị N không qua lại gì với anh Nguyễn Vũ H . Hội đồng xét xử xét thấy các tài liệu, chứng cứ trên chứng minh hôn nhân giữa anh Nguyễn Vũ H và chị Phạm Thị N đã lâm vào trình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên theo quy định tại các điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cho anh Nguyễn Vũ H ly hôn với chị Phạm Thị N .

Về con chung: Anh Nguyễn Vũ H và chị Phạm Thị N không có con chung nên Hội đồng xét xử không xét.

Về tài sản chung và thực hiện nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng: Anh Nguyễn Vũ H không tranh chấp về việc chia tài sản chung, nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng và yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ về tài sản nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/PL-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc nguyên đơn anh Nguyễn Vũ H phải chịu số tiền 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về yêu cầu ly hôn để sung vào công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà anh Nguyễn Vũ H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000592 ngày 04 tháng 12 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện P M, tỉnh Bình Định.

[5] Ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khon 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm c khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/PL-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn anh Nguyễn Vũ H .

1. Về quan hệ hôn nhân:

Cho anh Nguyễn Vũ H ly hôn với chị Phạm Thị N .

Quan hệ hôn nhân giữa anh Nguyễn Vũ H và chị Phạm Thị N theo Giấy chứng nhận kết hôn số 21, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã M H, huyện P M, tỉnh Bình Định chứng nhận ngày 28 tháng 4 năm 2008 chấm dứt kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Anh Nguyễn Vũ H và chị Phạm Thị N không có con chung nên Hội đồng xét xử không xét.

3. Về tài sản chung và thực hiện nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng: Anh Nguyễn Vũ H không tranh chấp về việc chia tài sản chung, nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng và yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ về tài sản nên Hội đồng xét xử không xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc anh Nguyễn Vũ H phải chịu số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về yêu cầu ly hôn để sung vào công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mà anh Nguyễn Vũ H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000592 ngày 04 tháng 12 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

5. Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (Ngày 11 tháng 3 năm 2019). Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt, niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

338
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2019/HNGĐ-ST ngày 11/03/2019 về ly hôn

Số hiệu:42/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Mỹ - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về