Bản án 42/2019/HNGĐ-ST ngày 22/03/2019 về ly hôn, con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 42/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/03/2019 VỀ LY HÔN, CON CHUNG

Ngày 22 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 39/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 01 năm 2019 về việc ly hôn, con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Dương Thị U, sinh năm 1981; cư trú tại: Ấp TP A, xã TAKĐ, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Bị đơn: Anh Trần Văn M, sinh năm 1972; cư trú tại: Ấp TP A, xã TAKĐ, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Dương Thị U trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trần Văn M chung sống với nhau năm 2003, có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống vợ chồng xãy ra nhiều mâu thuẫn, do anh M có tính gia trưởng, không lo làm ăn, không quan tâm lo lắng cho gia đình, gia đình hai bên có hàn gắn nhiều lần nhưng anh M không thay đổi. Nay chị yêu cầu được ly hôn với anh M.

- Về con chung: Trong quá trình chung sống, chị và anh M có 02 người con chung tên Trần Huệ T, sinh ngày 18/8/2005 và Trần T1, sinh ngày 20/5/2014 hiện đang sống chung với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi cả 02 người con, không yêu cầu anh M cấp dưỡng.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về các vấn đề khác: Vợ chồng không có nợ người khác và không có người khác nợ lại vợ chồng.

Tại phiên tòa: Chị U giữ nguyên quan điểm, không có yêu cầu khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Chị Dương Thị U khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn, nuôi con chung với anh Trần Văn M là vụ kiện tranh chấp ly hôn và con chung, do đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh M, nhưng anh M không có ý kiến gì về nội dung khởi kiện của chị U. Tại phiên tòa, anh M vắng mặt không phải vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan. Do đó, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh M.

[3] Xét về quan hệ hôn nhân, Hội đồng xét xử thấy rằng: Vào năm 2003, chị U với anh M chung sống với nhau trên tinh thần tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình tại Ủy ban nhân dân xã TAKĐ. Như vậy, mối quan hệ hôn nhân giữa chị U và anh M được pháp luật công nhận và bảo vệ.

[4] Xét về nguyên nhân mâu thuẫn, Hội đồng xét xử nhận thấy: Theo chị U xác định nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài. Tuy nhiên, anh M không có ý kiến đối với nguyên nhân mâu thuẫn do chị U trình bày. Như vậy, những nguyên nhân mâu thuẫn do chị U xác định thuộc trường hợp những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Từ đó, Hội đồng xét xử khẳng định anh M không thật sự còn quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân với chị U, không có thiện chí phối hợp với Tòa án để giải quyết vụ án. Mặt khác, tại phiên tòa chị U xác định trong thời gian ly thân chị và anh M không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hiện nay chị không còn tình cảm đối với anh M, do đó chị không thể tiếp tục cuộc sống vợ chồng với anh M.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử khẳng định mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng giữa chị U và anh M đã lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị U về quan hệ hôn nhân.

[5] Xét về con chung, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tính đến ngày xét xử cháu T là con chung của chị U với anh M đã hơn 13 tuổi, còn cháu T1 cũng gần tròn 05 tuổi hiện 02 cháu đang sống ổn định với chị U. Khi ly hôn, chị U yêu cầu được nuôi cả 02 người con, không yêu cầu anh M cấp dưỡng. Tuy nhiên, anh M không có ý kiến đối với chị U về việc nuôi con và cấp dưỡng.

Tại phiên tòa, chị U xác định chị có thu nhập ổn định để đảm bảo điều kiện nuôi con và hiện các con đang sống với chị có điều kiện phát triển tốt về thể chất, tinh thần. Ngoài ra, các cháu cũng được chị cho đi học bình thường như các trẻ em khác đồng trang lứa. Mặt khác, theo biên bản ghi nguyện vọng của T thì cháu có nguyện vọng được sống chung với mẹ nếu Tòa án giải quyết cho cha mẹ ly hôn.

Do đó, để tránh thay đổi về môi trường sống, cũng như sự phát triển bình thường về thể chất, tinh thần, điều kiện học của 02 cháu nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị U về nuôi con chung. Giao cháu T và cháu T1 cho chị U được tiếp tục nuôi dạy.

[6] Xét về cấp dưỡng, tài sản chung và các vấn đề khác: Chị U không yêu cầu Tòa án giải quyết về các mối quan hệ này, còn anh M không có ý kiến, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[7] Xét về án phí dân sự: Chị U phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 2 Điều 92; Điều 5; Điều 91; Điều 147 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; khoản 1, khoản 2 Điều 81; khoản 1, khoản 3 Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Dương Thị U.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Dương Thị U được ly hôn với anh Trần Văn M.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Huệ T, sinh ngày 18/8/2005 và Trần T1, sinh ngày 20/5/2014 cho chị Dương Thị U được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Trần Văn M không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh Trần Văn M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở.

3. Về án phí dân sự: Chị Dương Thị U phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0009009 ngày 23 tháng 01 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi; chị Dương Thị U đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

380
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2019/HNGĐ-ST ngày 22/03/2019 về ly hôn, con chung

Số hiệu:42/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về