Bản án 42/2019/HS-ST ngày 09/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 42/2019/HS-ST NGÀY 09/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 5 năm 2019 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố B (TP. B), tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Ngô Đình H, tên gọi khác: không; sinh ngày: 02/9/1998, tại Ninh Thuận; HKTT: ấp X, xã T, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú: Tổ Y, phường L, TP. B, Lâm Đồng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; trình độ học vấn: 06/12; nghề nghiệp: Không; con ông: Trần Minh T và bà: Ngô Thị Lệ X; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 19/01/2019 cho nay, có mặt.

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Ph, sinh năm: 1995; trú tại: Số M đường P, Phường N, TP. V, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, vắng nặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 02 giờ sáng ngày 16/01/2019, sau khi chơi Intenet Ngô Đình H đi bộ về nhà trọ. Khi đi đến số nhà M đường H, Phường Y, TP. B, H thấy cửa sổ nhà bếp đang mở, không có thanh chắn nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. H trèo hàng rào vào khu vực phía sau nhà chui qua cửa sổ vào trong phòng bếp rồi đi đến phòng khách của tầng trệt, thấy có 01 túi xách nhãn hiệu Susen màu đen của chị Nguyễn Thị Ph để trên ghế sopha và 01 túi xách nhãn hiệu LYN màu hồng của chị Nguyễn Thị Ph1 (em dâu chị Ph), trú tại: Số K đường P, Phường M, Tp. V treo trên móc đồ. H lấy 02 chiếc túi xách này mang đến khu vực phía sau phòng bếp và mở ra xem nhưng không có gì nên H bỏ lại tại đây. Tiếp đó, H đi vào phòng ngủ ở trên lầu thì thấy chị Nguyễn Thị Ph1 và chồng sắp cưới là anh Nguyễn Chí Q, trú tại: Thôn T, xã L, huyện D, Lâm Đồng đang ngủ, trên chiếc kệ tủ ở gần giường ngủ có 01 điện thoại di động nhãn hiệu iphone 6S, 01 túi xách nhãn hiệu Vascara màu vàng, nâu và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X (có ốp lưng màu cam) đang sạc pin để ở dưới nền nhà, H đã lấy trộm số tài sản này. H mang túi xách vừa trộm cắp được ra khu vực phía sau phòng bếp, kiểm tra bên trong thấy không có tài sản gì nên vứt chiếc túi xách tại đây thoát ra ngoài thông qua cửa sổ, đi về phòng trọ số B của công ty may H, tại đường P, tổ Y, phường L, TP. B. Ngay sau đó, gia đình chị Ph phát hiện bị mất trộm tài sản nên đã đến Công an phường Y, TP. B trình báo sự việc. Qua định vị điện thoại của chị Ph, Cơ quan điều tra đã xác định được vị trí của Ngô Đình H nên đưa H về trụ sở làm việc. Tại Cơ quan điều tra, Ngô Đình H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Kết luận định giá số 07 ngày 17/01/2019 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự TP. B xác định: 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng, 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone X màu đen và 01 ốp lưng màu cam trị giá 17.650.000 đồng, 03 giỏ xách trị giá: 390.000đồng.

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại: 01 giỏ xách màu đen nhãn hiệu Susen cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị Ph; 01 giỏ xách màu hồng nhãn hiệu LYN; 01 giỏ xách màu vàng, nâu, nhãn hiệu Vascara; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone X màu đen; 01 ốp lưng màu cam trả lại cho chị Nguyễn Thị Ph1. Sau khi nhận lại được số tài sản trên chị Ph1 không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã nêu, không có thắc mắc khiếu nại đối với nội dung bản cáo trạng. Bị cáo nhận thức hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật.

Bản Cáo trạng số 38/CT-VKS.BL ngày 26 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân TP. B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Ngô Đình H về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Ngô Đình H đã có hành vi trộm cắp 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone X màu đen (có ốp lưng màu cam) của chị Nguyễn Thị Ph1, tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 17.650.000 đồng (Mười bảy triệu sáu trăm năm mươi ngàn đồng). Đối với 03 chiếc túi xách bị cáo không lấy mà bỏ lại trong khuôn viên nhà của chị Ph nên không tính trị giá tài sản trộm cắp. Hành vi của bị cáo đã vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân và gây mất trật tự trị an tại địa phương, do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo H từ 09 đến 12 tháng tù và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để các bị cáo sớm trở về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an TP. B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản Ngô Đình H đã lén lút trộm cắp 02 chiếc điện thoại di động của người khác trị giá 17.650.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự, trị an tại địa phương do vậy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét thấy: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nơi cư trú và việc làm ổn định, do vậy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại sau khi nhận lại tài sản không có yêu cầu gì thêm nên không đề cập.

[4]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên: 

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Ngô Đình H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Ngô Đình H 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/01/2019.

2/ Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết số 326 của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án buộc Ngô Đình H phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo có quyền kháng cáo,

riêng người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2019/HS-ST ngày 09/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:42/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về