Bản án 423/2019/HS-PT ngày 27/11/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 423/2019/HS-PT NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 338/2019/TLPT-HS ngày 04 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo Đặng Ngọc Q do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 455/2019/HS-ST ngày 30/09/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

- Bị cáo có kháng cáo:

Đng Ngọc Q (tên gọi khác: N), sinh năm 1968 tại Bình Định; Nơi cư trú: Thôn D, xã H, huyện H1, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng M (đã chết) và bà Phùng Thị N (đã chết); có vợ tên Trần Thị D, sinh năm 1972, có 03 con, lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt từ ngày 11/7/2019. Có mặt.

Ngoài ra còn có bị hại không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị; Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 24/4/2019 thông qua mạng xã hội Facebook, Đặng Ngọc Q làm quen và kết bạn với bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1972, hộ khẩu thường trú tại thôn Đ, xã H2, huyện P, tỉnh Phú Yên. Sau đó Q và bà H thường xuyên nhắn tin qua lại với nhau qua facebook, Q nói Q làm nghề buôn bán vàng thô và rủ bà H cùng tham gia góp vốn với số tiền là 100.000.000 (một trăm triệu) đồng, bà H nói không đủ chỉ có 60.000.000 (sáu mươi triệu) đồng, Q nói còn 40.000.000 (bốn mươi triệu) đồng Q sẽ cho bà H mượn.

Ngày 29/4/2019 Q đến nhà bà H ở tỉnh Phú Yên chơi, đến khoảng 04 giờ ngày 30/4/2019, Q cùng bà H mang theo 60.000.000 (sáu mươi triệu) đồng và 01 xe mô tô nhãn hiệu Air Blade BKS 78E1-280xx, 01 Ipad mini-2 của bà H ra thành phố Quy Nhơn chơi, do có ý định chiếm đoạt tài sản từ trước nên trước khi đi Q nói bà H bỏ tiền vào cốp xe cho an toàn, đến khoảng 10 giờ cùng ngày Q và H đón xe khách vào thành phố Hồ Chí Minh, khi đến Khu công nghiệp Amata Q chủ động nói bà H xuống xe để nghỉ ngơi chờ sáng sẽ đi thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi xuống xe Q điều khiển xe mô tô chở bà H đến nhà nghỉ “T” thuộc khu phố N, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thuê phòng nghỉ ngơi. Sau khi lên phòng Q mượn Ipad để sử dụng và hỏi mượn xe và giấy đăng ký xe của bà H để đi mua đồ ăn, bà H đồng ý giao chìa khóa và giấy đăng ký xe cho Q. Sau khi có được tài sản Q xuống lấy xe chạy ra khu vực ngã tư Amata lấy số tiền 60.000.000 (sáu mươi triệu) đồng trong cốp xe rồi mang theo xe và Ipad mini-2 của bà H đón xe khách về Bình Định. Bà H ở nhà nghỉ “T” chờ Q nhưng không thấy Q về liên lạc qua số điện thoại của Q thì không liên lạc được, biết mình bị lừa nên đến 07 giờ 30 ngày 01/5/2019 bà H đến Công an phường T trình báo sự việc.

Sau khi chiếm đoạt được số tài sản nói trên, Q mang xe mô tô nhãn hiệu Air Blade biển kiểm soát 78E1-280xx của bà H về nhà tại Thôn D, xã H, huyện H1, tỉnh Bình Định sử dụng. Số tiền chiếm đoạt được Q đã trả nợ và tiêu xài cá nhân hết. Sau đó thông qua người quen, ngày 09/7/2019 bà H phát hiện xe mô tô nhãn hiệu Air Blade biển kiểm soát 78E1-280xx tại nhà của Q nên đến Công an xã H, huyện H1 trình báo, Công an xã H đã bắt giữ Q cùng tang vật lập hồ sơ ban đầu rồi chuyển người cùng tang vật đến Cơ quan điều tra Công an Tp Biên Hòa để thụ lý theo thẩm quyền.

- Vật chứng vụ án gồm:

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Air Blade biển kiểm soát 78E1-280xx và 01 giấy chứng nhận đăng ký mô tô xe máy mang tên Phạm Thị Ngọc D là tài sản của bà H bị Q chiếm đoạt, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu hồi trả cho bà H.

+ 01 Ipad mini-2 là tài sản của bà H bị Q chiếm đoạt, sau đó Q đã vứt bỏ không xác định được địa điểm nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

+ Số tiền 60.000.000 (sáu mươi triệu) đồng là tài sản của bà H, Q đã chiếm đoạt và tiêu xài cá nhân hết nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

- Tại bản kết luận định giá tài sản số 277/TCKH-HĐĐG ngày 15/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã kết luận một xe mô tô nhãn hiệu Air Blade biển kiểm soát 78E1-280xx giá trị 37.600.000 (ba mươi bảy triệu sáu trăm nghìn) đồng.

- Tại bản kết luận định giá tài sản số 357/TCKH-HĐĐG ngày 20/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã kết luận một 01 Ipad mini- 2, loại 16 GB giá trị 3.575.000 (ba triệu lăm trăm bảy mươi lăm nghìn) đồng.

- Về dân sự:

+ Bà H yêu cầu Q bồi thường số tiền Q đã chiếm đoạt gồm 60.000.000 (sáu mươi triệu) đồng và chiếc Ipad mini-2 theo giá trị định giá.

Bản cáo trạng số: 449/CT-VKSBH-HS ngày 09 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Đặng Ngọc Q về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại bản án sơ thẩm số 455/2019/HS-ST ngày 30/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt Đặng Ngọc Q 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/7/2019.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 07/10/2019, bị cáo Đặng Ngọc Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Quan điểm Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:

Hành vi của bị cáo Đặng Ngọc Q đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 BLHS năm 2015. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét xử bị cáo với mức án 03 năm tù là phù hợp với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo.

Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới, ngoài những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo, y án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Ngọc Q thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Hồ sơ thể hiện: do muốn có tiền tiêu xài và trả nợ, bị cáo Q đã tìm cách tiếp cận và làm quen với bà Nguyễn Thị H qua mạng xã hội “Facebook”, rồi liên lạc để gặp bà H. Vào ngày 30/4/2019 tại nhà nghỉ “T” thuộc Khu phố N, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Đặng Ngọc Q đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị H số tiền 60.000.000đ; 01 xe mô tô nhãn hiệu Airblade biển kiểm soát 78E1-280.xx có giá trị theo định giá là 37.600.000đ và 01 chiếc Ipad mini – 2 trị giá định giá là 3.575.000đ, tổng số tiền mà Q đã chiếm đoạt là 101.175.000đ rồi bỏ trốn.

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 BLHS là có căn cứ và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là người trong độ tuổi lao động nhưng lại không tự lao động nuôi sống bản thân mà có hành vi dùng thủ đoạn kết bạn với những người phụ nữ qua mạng xã hội để lừa đảo chiếm đoạt tài sản thể hiện thái độ lười lao động, bất chấp xem thường pháp luật.

Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, một phần tài sản chiếm đoạt đã thu hồi trả cho bị hại để xét xử bị cáo mức án 04 (bốn) năm tù là phù hợp, không nặng như kháng cáo của bị cáo đã nêu.

Tại cấp phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và gia đình của bị cáo cung cấp đơn xin bãi nại của bị hại với nội dung gia đình bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 50.000.000đ và bị hại xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo các bị cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[3] Về án phí:

Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Ngọc Q, sửa bản án sơ thẩm số 455/2019/HS-ST ngày 30/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa về hình phạt đối với bị cáo.

[2] Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Đặng Ngọc Q 03 (ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 11/7/2019.

[3] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội.

Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 423/2019/HS-PT ngày 27/11/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:423/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về