Bản án 424/2019/HNGĐ-ST ngày 24/10/2019 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 424/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/10/2019 VỀ XIN LY HÔN

Trong ngày 24 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 237/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2019 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 476/2019/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trần Thị Kim H, sinh năm 1969; nơi cư trú: tổ 40, ấp P, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Ông Huỳnh Trung S, sinh năm 1966; nơi cư trú: tổ 40, ấp P, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang.

(Bà H có mặt, riêng ông S vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện cùng với các tài liệu và chứng cứ kèm theo và quá trình tố tụng tại Tòa án, bà Trần Thị Kim H trình bày: Bà H và ông Huỳnh Trung S tự tìm hiểu yêu thương nhau đi đến hôn nhân vào năm 1993 nhưng không đăng ký kết hôn. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn và thường xuyên cãi vã nhau và ông S bỏ nhà đi và ly thân cho đến nay, bà H có liên lạc nhiều lần nhưng ông S vẫn không đồng ý chung sống với bà. Nay, tình cảm vợ chồng không còn nên bà H yêu cầu được ly hôn với ông S.

Về con chung: Trong thời gian chung sống, hai người có 02 con chung tên Huỳnh Thị Ngọc Â, sinh ngày 13/02/1994 và Huỳnh Trung N, sinh ngày 06/10/2006. Về con chung tên Huỳnh Thị Ngọc  đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, hiện bà H đang nuôi dạy con chung tên N khi ly hôn bà H yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy, không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

Về quan hệ tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Về quan hệ nợ chung: Không có.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở phiên họp để các đương sự thực hiện quyền tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định nhưng ông Sang vẫn vắng mặt nên Tòa án ghi nhận sự vắng mặt ông Sang và không tiến hành hòa giải được.

Chứng cứ thu thập được: Tại biên bản xác minh từ ông Nguyễn Minh T là Trưởng ấp P, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang cho biết: Ông S là chồng của bà H, hiện nay ông S có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương không chuyển đi nơi khác và ông S đi làm thuê có thường xuyên về địa phương.

Tại biên bản ghi nhận ý kiến ngày 10/7/2019 cháu Huỳnh Trung N trình bày nguyện vọng muốn được sống chung với mẹ khi cha mẹ ly hôn.

Tại Phiên Tòa bà H bảo lưu ý kiến về tình cảm, tài sản chung, nợ chung, con chung. Riêng ông S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt ông S theo thủ tục chung.

Quan điểm Kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc ghi lời khai, hòa giải, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Về nội dung vụ án Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hôn nhân: Bà H và ông S chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1993 và không có đăng ký kết hôn. Điều này phù hợp với xác nhận của UBND xã Đa Phước vào ngày 20/6/2019 nên không công nhận bà H và ông S là quan hệ vợ chồng theo quy định tại Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Con chung tên Huỳnh Trung N hiện nay đang sống cùng bà H, khi ly hôn bà H yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy, không yêu cầu ông S phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung. Về con chung tên Huỳnh Thị Ngọc  đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên nên giao cháu Nghĩa cho bà H tiếp tục nuôi dạy là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng: Theo quy định của pháp luật, bên không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nhưng qua ghi nhận lời khai và tại phiên tòa bà H không yêu cầu nên công nhận sự tự nguyện này.

Về tài sản chung và nợ chung: Các bên khai tự thỏa thuận và cũng không có yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, quan điểm của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Trần Thị Kim H có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện A giải quyết về việc hôn nhân, nuôi con chung với ông Huỳnh Trung S, đồng thời bị đơn cư trú trên địa bàn huyện A. Căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

[1.2] Về việc vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Ông Huỳnh Trung S được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Sang theo khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự trong quá trình tố tụng thể hiện: Năm 1993, bà H và ông S tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng, không tổ chức lễ cưới và không đăng ký kết hôn. Mặc dù hôn nhân của ông S và bà H được xác lập trên cơ sở tự nguyện. Tuy nhiên, sau khi về chung sống như vợ chồng bà H và ông S không thực hiện việc đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Việc trình bày của bà H và ông S phù hợp với giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Đ vào ngày 20/06/2019 nên hôn nhân giữa bà H và ông S không được xem là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Hội đồng xét xử không công nhận bà Trần Thị Kim H và ông Huỳnh Trung S là vợ chồng.

[2.2] Về nuôi dưỡng con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng: Bà Trần Thị Kim H và ông Huỳnh Trung S có 02 con chung tên 1/ Huỳnh Thị Ngọc  (đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết); 2/ Huỳnh Trung N sinh ngày 06/10/2006, hiện nay N đang được bà H nuôi dạy, khi ly hôn bà H yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy, không yêu cầu ông S phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung. Đồng thời, cháu N có nguyện vọng muốn được sống chung với mẹ khi cha mẹ ly hôn. Vì vậy, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chua thành niên. Hội đồng xét xử xét nên giao con chung Huỳnh Trung N cho bà H tiếp tục nuôi dạy là phù hợp theo quy định tại Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Bà Trần Thị Kim H cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Huỳnh Trung S trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

[2.3] Về tài sản chung: Bà Trần Thị Kim H khai tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết, về nợ chung: bà H xác định không có; sau này nếu ông S có yêu cầu chia tài sản chung thì có quyền khởi kiện trong một vụ án khác.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 thì bà Hồng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình.

Ông Huỳnh Trung S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 9, 14, 15, 53, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 4 Điều 147, các Điều 227, 228, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

- Về hôn nhân: Không công nhận bà Trần Thị Kim H và ông Huỳnh Trung S là vợ chồng.

- Về con chung: Bà Trần Thị Kim H được quyền nuôi dưỡng cháu Huỳnh Trung N, sinh ngày 06/10/2006. Ông Huỳnh Trung S không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Trần Thị Kim H cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Huỳnh Trung S trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Không có.

- Về án phí: Bà Trần Thị Kim H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0011372 ngày 22/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A. (Bà H nộp đủ án phí) Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc vắng mặt khi tuyên án, thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ khi được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./ 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 424/2019/HNGĐ-ST ngày 24/10/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:424/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về