Bản án 43/2018/HNGĐ-ST ngày 28/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 43/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở TAND huyện Kim Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 153/2018/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2018, về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 49/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 26/10/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 49/2018/QĐST-HNGĐ ngày 12/11/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Th, sinh năm 1988.

ĐKHKTT: Đội 1 thôn P, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương.

Chỗ ở: Thôn T, xã Đ, huyện T, Hải Phòng.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn H, sinh năm 1987.

ĐKHKTT và cư trú: Đội 1 thôn P, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, biên bản lấy lời khai chị Hoàng Thị Th trình bày: Chị và anh Phạm Văn H được tự do tìm hiểu nhau và tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 14/8/2014 tại UBND xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do: vợ chồng không phù hợp về quan điểm sống, cách sống nên vợ chồng hay cãi nhau, cuộc sống vợ chồng luôn căng thẳng, sống không hạnh phúc. Nhiều lần gia đình chồng hòa giải nhưng mâu thuẫn vợ chồng không khắc phục được. Tháng 5/2018, chị bỏ về nhà ngoại ở Hải Phòng sống do mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng, từ đó đến nay vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Đến nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Phạm Văn H.

Về con chung: chị Th xác định vợ chồng có 01 Phạm Thị Hà V, sinh ngày 03/5/2015, hiện nay chị đang nuôi dưỡng con chung. Khi ly hôn chị có nguyện vọng được tiếp tục nuôi con và tự nguyện không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: chị Th xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết; Về nợ chung: không có.

Theo bản tự khai, biên bản lấy lời khai anh Phạm Văn H trình bày: Anh và chị Th được tự do tìm hiểu nhau và tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 14/8/2014 tại UBND xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng 1 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do: vợ chồng không phù hợp về tính cách, quan điểm nên hay cãi nhau, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Chị Th đã về nhà ngoại sống từ tháng 5/2018 đến nay, vợ chồng sống ly thân, mỗi người một nơi, không ai quan tâm đến ai. Nay chị Th làm đơn xin ly hôn với anh thì anh đồng ý vì tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng anh ly hôn với nhau.

Về con chung: anh H xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Phạm Thị Hà V, sinh ngày 03/5/2015, hiện đang do chị Th nuôi dưỡng. Khi ly hôn anh có nguyện vọng được nuôi con và tự nguyện không yêu cầu chị Th cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: anh H xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết; Về nợ chung: không có.

Theo biên bản xác minh tại UBND xã K: Anh Phạm Văn H và chị Hoàng Thị Th có đăng ký kết hôn tại UBND xã K vào ngày 14/8/2014. Trong cuộc sống vợ chồng Th H có mâu thuẫn hay không thì địa phương không nắm được.

Theo biên bản xác minh tại Công an xã K: Anh Phạm Văn H có đăng ký hộ khẩu thường trú tại đội 1 thôn P, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương. Hiện anh H vắng mặt tại địa phương, anh H không đăng ký tạm vắng nên Công an không biết hiện anh H đi đâu, làm gì.

Theo lời khai của bà Phạm Thị L là mẹ của chị Th cung cấp: Vợ chồng Th H có mâu thuẫn, nguyên nhân là do mâu thuẫn tính cách, quan điểm không phù hợp nên vợ chồng hay cãi nhau, khoảng tháng 5/2018 chị Th đã bỏ về nhà bà sinh sống, từ đó đến nay vợ chồng mỗi người sống một nơi.

Theo lời khai của bà Vũ Thị B là mẹ của anh H cung cấp: Trong cuộc sống vợ chồng anh H và chị Th có mâu thuẫn, nguyên nhân tính cách quan điểm không phù hợp, gia đình bà đã hòa giải nhưng không thành. Khoảng tháng 5/2018 chị Th đã bỏ về nhà mẹ đẻ, từ đó đến nay không về sống cùng anh H nữa. Anh H hiện không có nhà do đi làm ăn xa, tuy nhiên bà không biết địa chỉ cụ thể của anh H hiện nay như thế nào, anh H đi vào khoảng giữa tháng 9/2018, từ đó đến nay vẫn chưa về, thỉnh thoảng vẫn gọi điện về cho gia đình.

Tại phiên tòa chị Hoàng Thị Th vắng mặt nhưng có đơn xin xử vắng mặt và giữ nguyên quan điểm. Anh Phạm Văn H được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do.

Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập và quyết định hoãn phiên tòa tại trụ sở UBND xã K, nơi cư trú của anh Phạm Văn H và tại trụ sở TAND huyện Kim Thành theo quy định của pháp luật.

Đại diện VKSND huyện Kim Thành phát biểu quan điểm xác định những người tiến hành tố tụng và nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật, bị đơn thực hiện không đúng các quy định của pháp luật. Chị Th có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, còn anh H vắng mặt không lý do, đề nghị tòa án áp dụng khoản 1, 2 Điều 227, Điều 228 BLTTDS xử vắng mặt chị Th, anh H.

- Về hướng giải quyết vụ án: đề nghị TAND huyện Kim Thành áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Hoàng Thị Th được ly hôn anh Phạm Văn H; Về con chung: giao con cho chị Th tiếp tục nuôi dưỡng và chấp nhận sự tự nguyện của chị Th không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung và nợ chung: đương sự không yêu cầu nên không xem xét; Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí HNGĐ sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn cư trú tại xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương nên yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 BLTTDS thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Kim Thành. Chị Hoàng Thị Th có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Phạm Văn H được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do nên HĐXX xét xử vắng mặt chị Th, anh H là phù hợp với quy định tại khoản 1, 2 Điều 227, Điều 228 BLTTDS.

[2] Về yêu cầu xin ly hôn: Chị Hoàng Thị Th và anh Phạm Văn H được tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 14/8/2014 tại UBND xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương nên là hôn nhân hợp pháp.

[3] Căn cứ vào các lời khai của chị Th, anh H, biên bản xác minh và các lời khai của các người làm chứng xác định vợ chồng Thơ Hân có mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách, quan điểm của vợ chồng không phù hợp nên vợ chồng hay cãi nhau, mâu thuẫn giữa anh chị ngày càng căng thẳng, gia đình đã hòa giải nhưng vẫn không khắc phục được. Từ tháng 5/2018 đến nay vợ chồng sống ly thân, mỗi người một nơi, Tòa án đã cho anh chị thời gian để hòa giải nhưng chị Th vẫn kiên quyết xin ly hôn không muốn đoàn tụ, anh H cũng đông ý ly hôn vì xác định tình cảm vợ chồng không còn. Từ những phân tích trên, HĐXX thấy rằng tình trạng hôn nhân của vợ chồng Th H đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng, đời sống chung không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Th, xử cho chị Th được ly hôn anh H là phù hợp thực tế và các quy định của Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: chị Th và anh H xác định vợ chồng có 01 con là Phạm Thị Hà V, sinh ngày 03/5/2015, hiện con chung đang do chị Th nuôi dưỡng. Khi ly hôn anh chị đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con. Xét thấy nguyện vọng được nuôi con của chị Th và anh H đều chính đáng, anh chị đều có công việc, có thu nhập nên có thể đảm bảo cho con về mặt vật chất. Tuy nhiên, HĐXX xét thấy cháu Vy còn nhỏ, lại là con gái hơn nữa hiện nay chị Th đang nuôi dưỡng do vậy HĐXX giao cháu Phạm Thị Hà V cho chị Th tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Th tự nguyện không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con, xét thấy đây là sự tự nguyện của chị Th nên HĐXX chấp nhận.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Th và anh H đều xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết, còn về nợ chung thì vợ chồng không vay nợ ai và không cho ai vay nợ, do vậy HĐXX không xem xét.

[7] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu cả án phí sơ thẩm ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS và Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng: Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014; Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1, 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH.

2. Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hoàng Thị Th: Xử cho chị Hoàng Thị Th ly hôn anh Phạm Văn H

- Về con chung: Giao con Phạm Thị Hà V, sinh ngày 03/5/2015 cho chị Hoàng Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng, kể từ tháng 11/2018 đến khi con chung đủ 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Th không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Không ai được ngăn cản quyền gặp gỡ, thăm nom con chung.

- Về án phí: Chị Hoàng Thị Th phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được đối trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí chị đã nộp theo biên lai số AA/2016/000880 ngày 21/6/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Thành. Chị Th đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt nguyên đơn, bị đơn. Báo cho chị Hoàng Thị Th, anh Phạm Văn H biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2018/HNGĐ-ST ngày 28/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:43/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về