Bản án 43/2019/HS-PT ngày 28/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK 

BẢN ÁN 43/2019/HS-PT NGÀY 28/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28/01/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 452/2018/TLPT-HS, ngày 25 tháng 12 năm 2018, đối với bị cáo Nguyễn Kim T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Kim T đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2018/HS-ST, ngày 21/11/2018 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Kim T, sinh ngày 03/9/1969, tại tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Tổ dân phố H, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Thợ mộc; trình độ học vấn 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch Việt Nam; con ông Nguyễn Kim T1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị B (đã chết); Vợ: Lê Thị V, sinh năm 1978; Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1993, con nhỏ nhất sinh năm 1998; tiền án: 01 tiền án (Ngày 23/9/2016 bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 24 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, sau đó bị cáo chấp hành án tại trại giam Đại Bình, tỉnh Lâm Đồng. Ngày 24/02/2018 chấp hành xong hình phạt, chưa được xóa án tích); tiền sự không; Nhân thân: Ngày 20/9/2010, bị Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 02 năm tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 04 năm, về tội “Vi phạm quy định về khai thác và bảo vệ rừng”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và đương nhiên được xóa án tích.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ ngày 10/8/2018, tạm giam từ ngày 16/8/2018, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: 

Nguyễn Kim T sinh ngày 03/9/1969 trú tại tổ dân phố H, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk là người nghiện ma túy từ năm 2010. Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 10/8/2018 T đi bộ từ nhà ra trạm xe buýt trung tâm thị xã B đón xe buýt đi thành phố M, tỉnh Đắk Lắk để mua chất ma túy Heroine (gọi tắt là Hêrôin) về sử dụng cho bản thân. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày T xuống xe buýt trước siêu thị Coop Max thành phố M, tỉnh Đắk Lắk đi bộ vào đường Đ thuộc phường T, thành phố M, tỉnh Đắk Lắk. Đi được một đoạn khoảng 700m thì gặp một người phụ nữ khoảng 25 tuổi ( không rõ nhân thân, lai lịch) người này trước đó đã bán ma túy cho T 02 lần đang ngồi bên đường hỏi T “Chú mua đồ à” T trả lời “Ừ bán cho 200.000 đồng”, sau khi thỏa thuận T đưa cho người phụ nữ 200.000 đồng và người này đưa cho T một đoạn ống nhựa hút nước bịt hai đầu bên trong có chứa Hêrôin và cho thêm T 01 gói giấy bạc bên trong có chứa Hêrôin. Sau đó T bỏ ống nhựa và gói giấy bạc chứa Herôin vào trong vỏ bao gói thuốc lá nhãn hiệu Sài Gòn rồi bỏ vào túi quần phía trước bên phải, rồi đi đến đoạn đường hẻm vắng người gần đó lấy ra một ít Hêrôin gói trong giấy bạc dùng kim tiêm và nước cất chuẩn bị từ trước ra sử dụng chích trực tiếp vào ven tay của mình, số Hêrôin còn lại T tiếp tục gói vào trong giấy bạc bỏ vào bao thuốc lá Sài Gòn và cất vào trong túi quần phía trước bên phải. Sau khi sử dụng Hêrôin T đi đến cây số 3, thành phố M đón xe buýt về lại thị xã B. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày khi đến trạm xe buýt đối diện với bến xe thị xã B, thuộc tổ dân phố N, phường L, thị xã B, T xuống xe thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ trong túi quần phía trước bên phải của T 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Sài Gòn bên trong có một đoạn ống nhựa màu trắng bịt kín hai đầu có chứa các cục chất rắn màu trắng, T khai đó là chất ma túy Hêrôin.

Vật chứng của vụ án Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ thu giữ trên người của Nguyễn Kim T 01 vỏ gói thuốc lá nhãn hiệu Sài Gòn bên trong đựng 01 đoạn ống nhựa màu trắng và 01 gói giấy bạc bên trong có chứa các cục chất rắn màu trắng.

Tại bản giám định số 705/GĐMT –PC 45 ngày 14/8/2018 của Phòng hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Các cục chất rắn màu trắng đựng trong một đoạn ống hút nhựa màu trắng và một gói giấy bạc được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,1430 gam, loại Hêrôin. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng là 0,1135 gam Hêrôin.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 42/2018/HSST ngày 21/11/2018 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Kim T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Kim T 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 10/8/2018.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 23/11/2018 bị cáo Nguyễn Kim T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Kim T giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm đã được tóm tắt nêu trên.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng bản án đã xét xử bị cáo Nguyễn Kim T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự – Không chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Kim T – Giữ nguyên bản án sơ thẩm: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Kim T 03 năm tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì mà chỉ mong Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo Nguyễn Kim T tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay là phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập, đánh giá có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 10/8/2018, tại tổ dân phố N, phường L, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo Nguyễn Kim T đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy – loại ma túy Hêrôin khối lượng 0,1430 gam mục đích để sử dụng thì bị phát hiện và bắt quả tang. Do đó, bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo, xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo có nhân thân xấu: Năm 2010 bị Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 02 năm tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 04 năm, về tội “Vi phạm quy định về khai thác và bảo vệ rừng”; một tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội mới về ma túy và cả 03 lần phạm tội bị cáo đều phạm tội một cách cố ý. Sau khi chấp hành xong hình phạt, bị cáo được tái nhập cộng đồng xã hội nhưng không chịu tu dưỡng, rèn luyện mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo. Quá trình giải quyết vụ án, cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng và đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo cũng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, mà cần giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm đối với bị cáo là phù hợp.

[3] Về án phí: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Nguyễn Kim T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 [1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Kim T - Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2018/HS-ST ngày 21/11/2018 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn hồ, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt.

 [2] Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Kim T 03 (Ba) năm tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 10/8/2018.

 [3] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 23, Điều 26, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Kim T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

 [4] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2019/HS-PT ngày 28/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về