Bản án 43/2019/HS-ST ngày 23/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 43/2019/HS-ST NGÀY 23/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Mùa A Th, tên gọi khác: Không; sinh năm: 1988, tại huyện Đ, tỉnh Điện Biên; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú trước khi bị bắt: Bản H, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng, nương; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mùa A S (đã chết) và bà Vàng Thị D (đã chết); có vợ là Giàng Thị S (sinh năm 1989) và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2010, con nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị kết án và chưa bị xử lý hành chính; bị bắt tạm giữ ngày 17/4/2019, tạm giam từ ngày 20/4/2019, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo do Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên cử: Ông Phùng Việt H - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, vắng mặt có lý do.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Giàng Thị S, sinh năm: 1989; trú tại: Bản H, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên, có mặt.

2. Anh Trịnh Công B, sinh năm: 1991; trú tại: Bản P1, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên, có mặt.

 - Người chứng kiến: Chị Lò Thị N, sinh năm: 1994; trú tại: Tổ dân phố 3, thị trấn M, huyện M, tỉnh Điện Biên, vắng mặt.

- Người phiên dịch: Bà Ly Thị Ch - Sinh năm: 1990, Địa chỉ: Tổ 06, phường H, thành phố P, tỉnh Điện Biên, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng giữa tháng 02/2019 tại thị trấn M, huyện M, tỉnh Điện Biên bị cáo Mùa A Th gặp một người nam giới dân tộc Mông tên Hờ A T nhà ở huyện P, tỉnh Lai Châu. Đến tối ngày 14/4/2019, Hờ A T gọi điện thoại hỏi bị cáo Th đặt mua 05 túi hồng phiến với giá là 04 triệu đồng/0l túi, bị cáo Th đồng ý. Sáng ngày 15/4/2019 bị cáo Th một mình đi xe máy từ nhà ra trung tâm xã M sau đó dựng xe máy ở lề đường và đi bộ lên khu vực biên giới Việt - Lào gặp Sùng A Nh (là người quen của bị cáo đang sinh sống tại Bản P, huyện M, tỉnh Phông -sa- lỳ, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào), mua được 05 túi hồng phiến (ma túy tổng hợp) với giá 10.000.000 VND; tối cùng ngày bị cáo Th điện thoại thông báo cho Hờ A T đã mua được 05 túi hồng phiến, đồng thời hẹn sáng ngày 17/4/2019 gặp nhau tại thị trấn M, huyện M để giao dịch mua bán ma túy. Khoảng 03 giờ sáng ngày 17/4/2019 bị cáo Th cất giấu ma túy trong người và một mình đi xe máy đến đầu trung tâm huyện M gọi điện thoại cho Hờ A T, gặp nhau để giao dịch mua, bán. Hai bên gặp nhau trao đổi, thống nhất xong, T chở bị cáo Th bằng xe của bị cáo, khi đi đến khu vực tổ dân phố 14, thị trấn M, huyện M, tỉnh Điện Biên thì bị tổ công tác của Công an huyện Mường Chà làm nhiệm vụ phát hiện, lợi dụng sơ hở đối tượng tên Tùng chạy, bị cáo Th bị lực lượng chức năng bắt giữ thu được 05 gói hồng phiến trong túi áo khoác bên phải đang mặc.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu vật gửi giám định và niêm phong lại vật chứng do Công an huyện Mường Chà lập ngày 17/4/2019 thể hiện: Tổng 05 gói nilon màu xanh có chứa 969,5 viên nén màu hồng, xanh có khối lượng 91,996gam; trích mẫu gửi giám định 1,446gam ký hiệu lần lượt từ M1 đến M10; tiến hành niêm phong vật chứng còn lại 90,55gam.

Bản kết luận giám định số: 430/GĐ-PC09 ngày 22/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: 10 (mười) mẫu viên nén màu hồng, màu xanh được ký hiệu từ M1 đến M10 trích ra từ vật chứng thu giữ của Mùa A Th gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine. Khối lượng vật chứng thu giữ của Mùa A Th gồm 91,996 gam viên nén màu hồng, màu xanh.

Cáo trạng số 34/CT-VKS-P1, ngày 01/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Mùa A Th về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Mùa A Th về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Mùa A Th từ 18 năm đến 19 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: 90,55gam Methamphetamine đã niêm phong (vật chứng còn lại sau khi đã trích mẫu gửi giám định thu giữ của Mùa A Th); 01 giấy phô tô đăng ký xe, biển kiểm soát 27AA-023.00 mang tên Mùa A Th; 01 giấy đăng ký xe máy số 054970, biển kiểm soát 27AA-023.00 mang tên Mùa A Th do anh Trịnh Công B giao nộp tại phiên tòa. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước các vật sau: 01 điện thoại loại cảm ứng, nhãn hiệu Itel màu đen, bạc đã cũ qua sử dụng màn hình bị nứt, thu giữ của Mùa A Th; ½ giá trị xe máy nữ nhãn hiệu ESPERO biển kiểm soát: 27AA - 023.00 màu đỏ đen, số khung: RPEKCB3PEHA325727; số máy: VDEJQ139FMB-2325727, xe đã cũ qua sử dụng, thu giữ của Mùa A Th. Trả lại cho chị Giàng Thị S ½ giá trị xe máy nữ nhãn hiệu ESPERO biển kiểm soát: 27AA-023.00 màu đỏ đen thu giữ của Mùa A Th. Trả lại cho bị cáo các vật sau: 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 023008, cấp ngày 11/3/2016 mang tên Mùa A Th, BKS 27B1-405.67; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe mô tô, xe máy số: 017862955, mang tên Mùa A Th; 01 giấy phô tô hợp đồng mua bán xe máy thu giữ của Mùa A Th. Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Trong bài bào chữa của người bào chữa cho bị cáo gửi Hội đồng xét xử: Người bào chữa nhất trí với Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo là đúng người, đúng tội không oan sai. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự tuyên phạt bị cáo mức phạt tù theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên. Miễn hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo, miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trịnh Công B trình bày: Ngày 26/2/2018 anh B bán cho bị cáo Th 01 xe máy nữ nhãn hiệu ESPERO biển kiểm soát: 27AA-023.00 màu đỏ - đen giá 13 triệu đồng với hình thức trả góp, bị cáo Th đã trả trước cho anh B 07 triệu còn nợ 06 triệu hẹn đến tháng 02/2019 sẽ trả hết, sau đó bị cáo Th bị công an bắt về hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên chưa trả số tiền 06 triệu cho anh. Xe đã đăng ký mang tên Mùa A Th, anh không có ý kiến gì, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Giàng Thị S (vợ bị cáo Th) trình bày: Vào tháng 02/2018 hai vợ chồng thống nhất mua xe máy nhãn hiệu ESPERO biển kiểm soát: 27AA-023.00 màu đỏ đen giá 13 triệu đồng của anh Trịnh Công B để làm phương tiện đi lại cho gia đình, đã trả trước 07 triệu còn nợ lại 06 triệu, trong quá trình sử dụng xe, chồng chị là bị cáo Th tự ý sử dụng xe đi mua bán ma túy, chị hoàn toàn không biết, chị S đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Trong lời khai tại cơ quan điều tra của người chứng kiến chị Lò Thị Nh trình bày: Sáng sớm ngày 17/4/2019 trong khi đang đi tập thể dục buổi sáng chị được cơ quan Công an huyện Mường Chà mời chứng kiến việc bắt giữ bị cáo Mùa A Th và thu giữ trong túi bên phải áo khoác đang mặc của bị cáo Th 01 gói nilon màu trắng bên ngoài có một vòng băng dính màu đen, bên trong gói nilon có 05 túi nilon màu xanh, trong mỗi túi có nhiều viên nén màu hồng, màu xanh; chị nghe thấy bị cáo khai gói nilon thu giữ là ma túy tổng hợp, bị cáo đang mang đi bán thì bị bắt. Ngoài ra công an còn thu giữ một số vật khác, đồng thời tiến hành niêm phong ma túy; việc bắt giữ bị cáo hoàn toàn khách quan, bị cáo khai báo do tự nguyện không ai ép buộc hoặc đánh đập.

Trong lời nói sau cùng tại phiên tòa, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo Quá trình điều tra và tranh tụng tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Sáng ngày 15/4/2019 một mình bị cáo Mùa A Th điều khiển xe máy đi đến khu vực biên giới Việt – Lào tại xã M, huyện Đ mua 05 túi ma túy tổng hợp của đối tượng tên Nh với giá 10 triệu đồng. Sáng ngày 17/4/2019 bị cáo Mùa A Th mang 05 gói ma túy tổng hợp lên M bán cho đối tượng tên Hờ A T thì bị lực lượng chức năng bắt giữ. Lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL 01- 02); Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ (BL 60, 61); Biên bản mở niêm phong và xác định khối lượng lấy mẫu giám định chất ma túy và niêm phong lại vật chứng (BL 57-59); Kết luận giám định (BL 75); Biên bản ghi lời khai của người chứng kiến Lò Thị Nh (BL 128-130) và phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định bị cáo Mùa A Th đã mua 91,996gam Methamphetamine để bán tìm kiếm lợi nhuận. Hành vi của bị cáo gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội, đủ yếu tố cầu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng số 34/CT-VKS-P1 ngày 01/7/2019, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Mùa A Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm, khoản, điều luật áp dụng là có căn cứ Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ hành vi của mình Nhà nước nghiêm cấm và sẽ bị xử lý nghiêm khắc. Hành vi của bị cáo xâm phạm chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về chất ma túy mà trực tiếp là hoạt động mua, bán chất ma túy. Hành vi của bị cáo là một trong các nguyên nhân gây mất trật tự, an toàn xã hội.

[3] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ Bị cáo Mùa A Th sinh ra và cư trú tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; bản thân được học văn hóa đến lớp 4/12. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội vì lợi ích cá nhân.

Bị cáo không có tiền sự; không có tiền án; không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên và Người bào chữa cho bị cáo Mùa A Th về tình tiết “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt chính:

Từ các phân tích tại các đoạn [1], [2], [3], Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Mùa A Th vừa đảm bảo tính răn đe, giáo dục bị cáo vừa thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên và Người bào chữa cho bị cáo về hình phạt chính đối với bị cáo là có căn cứ Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự bị cáo còn “bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, căn cứ vào biên bản xác minh tài sản của cơ quan điều tra và qua tranh tụng tại phiên tòa cho thấy, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo (BL 118), đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên và Người bào chữa cho bị cáo đều đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và tịch thu tài sản đối với bị cáo là phù hợp Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Đối tượng tên Nh theo lời khai của bị cáo Mùa A Th là người bán ma túy cho bị cáo và đối tượng tên Hờ A T là người đặt mua ma túy của bị cáo, do không đủ thông tin để Cơ quan cảnh sát điều tra xác minh làm rõ, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh không đề cập trong vụ án; do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên, Người bào chữa cho bị cáo Mùa A Th, anh Trịnh Công B, chị Giàng Thị S tại phiên tòa như sau:

* Tịch thu tiêu hủy: 90,55gam Methamphetamine đã niêm phong (vật chứng còn lại sau khi đã trích mẫu gửi giám định thu giữ của Mùa A Th); 01 giấy phô tô đăng ký xe, biển kiểm soát 27AA-023.00 mang tên Mùa A Th; 01 giấy đăng ký xe máy số 054970, biển kiểm soát 27AA-023.00 mang tên Mùa A Th do anh Trịnh Công B giao nộp tại phiên tòa.

* Tịch thu nộp ngân sách nhà nước các vật sau: 01 điện thoại loại cảm ứng, nhãn hiệu Itel màu đen, bạc đã cũ qua sử dụng màn hình bị nứt, thu giữ của Mùa A Th; ½ giá trị xe máy nữ nhãn hiệu ESPERO biển kiểm soát: 27AA - 023.00 màu đỏ, đen, số khung: RPEKCB3PEHA325727; số máy: VDEJQ139FMB - 2325727, xe đã cũ qua sử dụng, thu giữ của Mùa A Th.

*Trả lại cho chị Giàng Thị S ½ giá trị xe máy nữ nhãn hiệu ESPERO biển kiểm soát: 27AA - 023.00 màu, đỏ đen thu giữ của Mùa A Th.

*Trả lại cho bị cáo các vật sau: 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 023008, cấp ngày 11/3/2016 mang tên Mùa A Th, BKS 27B1- 405.67; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe mô tô, xe máy số: 017862955, mang tên Mùa A Th; 01 giấy phô tô hợp đồng mua bán xe máy thu giữ của Mùa A Th.

- Trong quá trình điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Điện Biên đã trả lại cho chị Giàng Thị S các đồ vật sau: 01 giấy phép lái xe số: 110173002911, cấp ngày 29/9/2017 mang tên Mùa A Th; Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 100.000 (một trăm nghìn đồng) thu giữ của Mùa A Th; 01 ví giả da màu nâu đã cũ, qua sử dụng thu giữ của Mùa A Th; 01 (một) mũ bảo hiểm nhãn hiệu LUXURY đã cũ thu giữ của Mùa A Th theo quyết định xử lý đồ vật, tài liệu số 09, ngày 20/6/2019. Tại phiên tòa bị cáo Mùa A Th, chị Giàng Thị S không có ý kiến gì; nhận thấy, quyết định xử lý đồ vật, tài liệu của cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Điện Biên phù hợp với quy định tại Điều 36, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Chà, Điều tra viên; Cơ quan điều tra Công an tỉnh Điện Biên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân nhân tỉnh Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, Người bào chữa cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

 - Điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

- Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 135; Điều 136; Điều 106; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án

1. Tuyên bố:

Bị cáo Mùa A Th phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Mùa A Th 18 (mười tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/4/2019.

2. Về xử lý vật chứng:

* Tịch thu tiêu hủy:

- 90,55gam Methamphetamine (vật chứng còn lại sau khi đã trích mẫu gửi giám định thu giữ cảa Mùa A Th) đã niêm phong trong 01 phong bì công văn của Công an huyện Mường Chà mặt trước phong bì niêm phong ghi dòng chữ viết tay. Vật chứng còn lại của vụ: Mùa A Th SN 1988, trú tại Bản H, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Bị Công an huyện Mường Chà bắt quả tang vào hồi 05 giờ 25 phút, ngày 17/4/2019 tại Tổ dân phố 14, thị trấn Mường Chà, huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên. Khối lượng: 90,55gam (chín mươi phẩy năm năm). Mặt sau phong bì niêm phong các mép được dán kín và có chữ ký giáp lai ghi rõ họ và tên của Lữ Viết D, Nguyễn Vĩnh C, Lê Thị Thùy D, Lê Văn Quốc, Lò Thị Nh và Mùa A Th cùng bốn dấu niêm phong màu đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Chà. Bên ngoài phong bì dán một lớp băng dính trắng để bảo vệ.

- 01 giấy phô tô đăng ký xe, biển kiểm soát 27AA-023.00 mang tên Mùa A Th.

- 01 giấy đăng ký xe máy số 054970, biển kiểm soát 27AA-023.00 mang tên Mùa A Th do anh Trịnh Công B giao nộp tại phiên tòa.

* Tịch thu nộp ngân sách nhà nước các vật sau:

- 01 điện thoại loại cảm ứng, nhãn hiệu Itel màu đen, bạc đã cũ qua sử dụng màn hình bị nứt, thu giữ của Mùa A Th;

- ½ giá trị xe máy nữ nhãn hiệu ESPERO biển kiểm soát: 27AA - 023.00 màu đỏ, đen, số khung: RPEKCB3PEHA325727; số máy: VDEJQ139FMB - 2325727, xe đã cũ qua sử dụng, thu giữ của Mùa A Th.

*Trả lại cho chị Giàng Thị S: ½ giá trị xe máy nữ nhãn hiệu ESPERO biển kiểm soát: 27AA - 023.00 màu, đỏ đen thu giữ của Mùa A Th.

*Trả lại cho bị cáo các vật sau:

- 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 023008, cấp ngày 11/3/2016 mang tên Mùa A Th, BKS 27B1- 405.67;

- 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe mô tô, xe máy số: 017862955, mang tên Mùa A Th;

- 01 giấy phô tô hợp đồng mua bán xe máy thu giữ của Mùa A Th.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Điện Biên và Cục thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên ngày 02 tháng 7 năm 2019).

3. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Mùa A Th.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Mùa A Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Trịnh Công B, chị Giàng Thị S có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2019/HS-ST ngày 23/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về