Bản án 44/2018/HNGĐ–ST ngày 18/06/2018 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 44/2018/HNGĐ–ST NGÀY 18/06/2018 VỀ LY HÔN

Trong ngày 18 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án HNGĐ thụ lý số: 46/2018/TLST-HNGĐ ngày 17/01/2018 về việc "Ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 15/5/2018 và quyết định hoãn phiên tòa số 45/2018/QĐST-HNGĐ ngày 01/6/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Phạm Thị H - sinh ngày: 30/11/1985; Địa chỉ cư trú: Nơi ĐKNKTT: Tổ 5, khu 1, phường Đ, TP H, tỉnh Quảng Ninh; Nơi đăng ký tạm trú: Tổ 2, khu 5, phường Đ, TP H, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở hiện tại: Tổ 9a, khu 3, phường Y, TP H, Quảng Ninh  - có mặt.

- Bị đơn: anh Nguyễn Ngọc K - sinh ngày: 25/9/1977 Địa chỉ cư trú: Nơi ĐKNKTT: Tổ 5, khu 1, phường Đ, TP H, tỉnh Quảng Ninh; Nơi đăng ký tạm trú: Tổ 2, khu 5, phường Đ,  TP H, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở hiện tại: Số nhà 41, ngõ 6, tổ 10a, khu1, phường C, TP H, Quảng Ninh - vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nội dung vụ án theo nhƣ nguyên đơn chị Phạm Thị H trình bày:

- Về tình cảm: Chị H và anh Nguyễn Ngọc K kết hôn ngày 07/12/2012, đăng ký kết hôn tại UBND phường C, TP H. Vợ chồng kết hôn tự nguyện có thời gian tìm hiểu nhau là 01 năm. Trước khi kết hôn anh K đã có một lần kết hôn (đã ly hôn) và có 01 con gái tên là Nguyễn Ánh D. Sau khi kết hôn vợ chồng chuyển về cư trú tại địa chỉ tổ 2, khu 5, phường Đ, TP H. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh K không chịu tu chí làm ăn và không quan tâm đến gia đình vợ con, phó mặc toàn bộ việc làm kinh tế để lo cho gia đình gồm 04 người gồm chị H, anh K, con riêng của anh K và con chung của vợ chồng cho một mình chị H gánh vác. Hàng ngày anh K chỉ biết ăn ngủ và đi câu cá tiêu khiển. Khi chị H có ý kiến thì anh K đã đánh đập, thể hiện là một người chồng vũ phu. Do không thể chịu đựng được thêm nên đến năm 2016 chị H đưa con chung của vợ chồng ra ngoài thuê nhà sinh sống tại địa chỉ tổ 9a, khu 3, phường Y, TP H. Từ đó hai vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nữa.

Nay chị H nhận thấy không còn tình cảm vợ chồng gì với anh K, thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng đã rất trầm trọng, cuộc sống chung vợ chồng không thể tiếp tục nên đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Việt P, sinh ngày 24/01/2013, chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng

- Về tài sản chung: Vợ chồng không nợ chung ai, không có tài sản chung, không yêu cầu tòa án giải quyết về phần tài sản.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu được thẩm tra tại phiên toà, quan điểm trình bày của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về thủ tục tố tụng: Đây là tranh chấp ly hôn giữa hai đương sự cư trú trên địa bàn TP H, vì vậy Tòa án TP H thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền. Phía bị đơn là anh Nguyễn Ngọc K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, mặc dù đã nhận được giấy triệu tập nhưng anh K không đến toà án làm việc vì vậy tòa án không thể tiến hành hòa giải theo quy định tại khoản 1 điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Sau khi nhận quyết định xét xử anh K cũng vắng mặt không có lý do nên phiên tòa ngày 01/6/2018 đã phải hoãn, lần mở lại phiên tòa này anh K vẫn vắng mặt không có lý do nên việc tòa án đưa vụ án ra xét xử hôm nay vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Ngọc K là đúng quy định tại điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

* Về nội dung vụ án:Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, hội đồng xét xử nhận định:

Bị đơn anh Nguyễn Ngọc K đã được Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không có lý do vì thế tòa án không thể ghi nhận được quan điểm của anh K về yêu cầu khởi kiện của chị H và không tiến hành hòa giải được. Việc vắng mặt của anh K cũng có nghĩa là anh đã tự từ bỏ quyền được bác bỏ một phần hay toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị H, từ bỏ quyền được tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình.

Qua các trình bày của chị H nhận thấy hôn nhân giữa chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Ngọc K là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. cuộc sống chung vợ chồng có mâu thuẫn. Các trình bày của chị H về mâu thuẫn vợ chồng và nguyên nhân mâu thuẫn phù hợp với các cung cấp của hàng xóm và tổ dân phố khu 5, phường Đ - nơi vợ chồng tạm trú. Từ năm 2016 đến nay hai vợ chồng sống ly thân không còn quan tâm đến nhau. Xét các chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh K là trầm trọng nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Việt P, sinh ngày 24/01/2013 hiện đang được chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng. Xét yêu cầu này của chị H là hợp tình, hợp lý và để đản bảo quyền lợi của cháu Nguyễn Việt P nên chấp nhận giao con chung cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng, anh K không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Vợ chồng không nợ chung ai, không có tài sản chung, không yêu cầu tòa án giải quyết về phần tài sản nên không xem xét vấn đề tài sản chung.

- Về án phí: Nguyên đơn phải chịu toàn  bộ án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện VKS phát biểu quan điểm: Thẩm phán, hội đồng xét xử và thư ký đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự khi giải quyết vụ án, về quan điểm giải quyết vụ án đại diện VKS có quan điểm: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh K là trầm trọng nên đề nghị cho vợ chồng ly hôn. Con chung của vợ chồng hiện còn nhỏ do chị H đang trực tiếp nuôi dưỡng nên giao cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng.

Vì những lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014; Khoản 1 Điều 207, Điểm b Khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ  Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phạm Thị H đối với  anh Nguyễn Ngọc K

Giao  con chung là cháu Nguyễn Việt P, sinh ngày 24/01/2013 cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc,  giáo dục đến khi con chung đủ 18 tuổi, anh K không phải cấp dưỡng. Người trực tiếp nuôi con chung cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm  nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Về án phí: chị Phạm Thị H phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0002614, ngày 17/01/2018 của chi cục thi hành án dân sự TP H.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2018/HNGĐ–ST ngày 18/06/2018 về ly hôn

Số hiệu:44/2018/HNGĐ–ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về