Bản án 44/2018/HNGĐ-ST ngày 20/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 44/2018/HNGĐ-ST NGÀY 20/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 20 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 409/2018/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1985; hộ khẩu thường trú: Ấp Đ, xã L, huyện D, tỉnh B; chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã L, huyện D, tỉnh B.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn L, sinh năm 1983; hộ khẩu thường trú: Ấp Đ, xã L, huyện D, tỉnh B; chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã L, huyện D, tỉnh B.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt lần thứ hai không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn ngày 26 tháng 6 năm 2018, trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn (bà Hồng) trình bày:

Bà H và ông L chung sống với nhau từ năm 2008, hôn nhân tự nguyện, c tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện D, tỉnh B ngày 17 tháng 4 năm 2008.

Khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, ông L thường xuyên bỏ nhà đi đánh bạc qua đêm. Từ năm 2015, bà H, ông L đã không còn sống chung. Bà H sinh sống tại ấp T, xã L, huyện D. Ông L sinh sống tại ấp Đ, xã L, huyện D kéo dài đến nay. Vì vậy, bà H làm đơn xin ly hôn với ông L.

Con chung: Vợ chồng c 01 con chung tên Nguyễn Thị Hồng N, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2008. Hiện nay con chung đang sống chung với bà H tại ấp T, xã L, huyện D. Bà H yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con. Hiện tại bà đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con.

- Tài sản chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, bà H không có ý kiến gì khác.

* Đối với bị đơn ông Nguyễn L:

Trong quá trình tố tụng để giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng và các tài liệu, chứng cứ theo quy định pháp luật để báo cho ông L biết và thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình nhưng ông L vẫn vắng mặt không có lý do.

* Đại diện viện kiểm sát phát biểu tại phiên tòa:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng đầy đủ, đúng trình tự thủ tục, người tham gia tố tụng đúng thành phần. Phiên tòa được tiến hành đúng trình tự. Nguyên đơn đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Bị đơn không tuân thủ đúng quy định pháp luật.

Về nội dung vụ án: Các tài liệu, chứng cứ được Hội đồng xét xử làm rõ tại phiên tòa cho thấy yêu cầu của nguyên đơn là cơ cơ sở chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Bà H khởi kiện ông L về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Ông L hiện đang cư trú tại ấp Đ, xã L, huyện D, tỉnh B nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

 [2] Bà H và ông L chung sống với nhau từ năm 2008, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện D, tỉnh B. Vợ chồng sống chung hạnh phúc cho đến cuối năm 2015 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, vợ chồng hay xảy ra gây cãi nhau. Từ cuối năm 2015, bà H, ông L đã không còn sống chung. Ông L ở ấp Đ, xã L, huyện D, tỉnh B còn bà H sinh sống ở ấp T, xã L, huyện D, tỉnh B cho đến nay. Vì vậy, bà H làm đơn xin ly hôn với ông L.

 [3] Bà H xin ly hôn với ông L, tòa án đã tiến hành triệu tập ông L nhiều lần đến Tòa án để hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng ông L vẫn không có mặt. Điều này cho thấy ông L không còn muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đồng thời, theo các biên bản xác minh ngày 24 tháng 7 năm 2018 và ngày 30 tháng 7 năm 2018 thì nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, thường xuyên cãi nhau. Bà H và ông L không sống chung với nhau từ cuối năm 2015 cho đến nay. Hội đồng xét xử nhận thấy: Vợ chồng c nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Thế nhưng cuộc sống vợ chồng giữa bà H và ông L không đạt được những điều đố . Nên yêu cầu xin ly hôn của bà H là c cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [4] Về con chung: Bà H và ông L có 01 con chung Nguyễn Thị Hồng N, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2008. Bà H yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử nhận thấy, hiện nay, con chung đang sống chung với bà H. Để tránh làm xáo trộn cuộc sống của trẻ vị thành niên nên giao cháu Nhung cho bà H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp.

 [5] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà H không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con nên ghi nhận.

 [6] Tài sản chung, nợ chung: Bà H không yêu cầu nên không xem xét.

 [7] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng là phù hợp nên chấp nhận.

 [8] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà H phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 235, 266, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H đối với ông Nguyễn L về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

+ Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H ly hôn với ông Nguyễn L.

+ Về con chung: Giao cho bà Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thị Hồng N, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2008.

Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị H không yêu cầu ông Nguyễn L cấp dưỡng nuôi con.

Hai bên được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con c quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

2. Tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị H chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) và được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí mà bà H đã nộp theo biên lai thu số AA/2016/0012039 ngày 26 tháng 6 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 20/11/2018). Bị đơn vắng m t c quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

307
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2018/HNGĐ-ST ngày 20/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:44/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về