Bản án 44/2018/HS-ST ngày 16/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 44/2018/HS-ST NGÀY 16/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở UBND xã Mường Và, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2018/TLST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2018/QĐXXST-HS, ngày 03/5/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn C - Sinh năm: 1996. Tại: huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.

Nơi cư trú: Bản N, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp:trồng trọt; Trình độ văn hóa 12/12; Dân tộc: Lào;

Con ông: Lò Văn A và bà: Lò Thị A; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/12/2017 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 20 phút ngày 29 tháng 12 năm 2017, tại khu vực Huổi Ta, bản Mường Lạn, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp tổ công tác công an huyện Sốp Cộp đã phát hiện và bắt quả tang Lò Văn C đang có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.Vật chứng thu giữ trong túi quần bên phải C đang mặc 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong có chứa nhựa thực vật màu nâu đen (Nghi là nhựa thuốc phiện); 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa 03 viên nén màu hồng (nghi là ma túy tổng hợp) C khai nhận đó là nhựa thuốc phiện và ma túy tổng hợp. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và dẫn giải Lò Văn C về Công an huyện Sốp Cộp xử lý theo quy định của pháp luật

Ngày 02/01/2018 tại Phòng PC54 - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng thu giữ. Kết quả cân tịnh:

- Cục nhựa thực vật mầu nâu đen (nghi là nhựa thuốc phiện) có khối lượng là 4,8 gam, lấy hết 4,8 làm mẫu giám định, ký hiệu C1.

- 03 (ba) viên nén màu hồng (nghi là ma túy tổng hợp) có khối lượng là 0,26 gam, lấy hết 0,26 gam làm mẫu giám định ký hiệu C2.

Kết luận giám định số: 153/KLMT ngày 03/01/2018 của Phòng KTHS - Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu giám định ký hiệu C1 là chất ma túy; Loại nhựa thuốc phiện; Khối lượng mẫu gửi giám định là 4,8 gam. Mẫu giám định ký hiệu C2 là chất ma túy; Loại chất Methamphetamine; Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,26 gam”

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lò Văn C khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Do nghiện ma túy khoảng 12 giờ ngày 29/12/2017, Lò Văn C một mình mang theo số tiền 250.000đ (hai trăm năm mươi nghìn đồng) đi bộ từ bản Mường Lạn, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La đến cụm Co Hạ thuộc bản Khá, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp để tìm mua ma túy sử dụng. Khi đi đến cụm Co Hạ, C gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết hỏi và mua được 01 cục nhựa thuốc phiện và 03 viên ma túy tổng hợp với giá 250.000đ. Mua được ma túy Công cất giấu vào trong túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi quay về bản Mường Lạn, khi về đến khu vực Huổi Ta thuộc bản Mường Lạn, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp thị gặp tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp kiểm tra phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Cáo trạng số 30/CT – VKS, ngày 29 tháng 3 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp để xét xử bị cáo Lò Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà sau khi trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 7, điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo: Lò Văn C từ 16 đến 20 tháng tù. Đồng thời đề nghị miễn hình phạt

bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Lò Văn C nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với cộng đồng trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lò Văn C khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo đã trực tiếp tàng trữ 4,8 gam thuốc phiện và 0,26 gam Methamphetamine, quy đổi 0,26 gam Methamphetamin ra thuốc phiện có khối lượng là 0,015 gam thuốc phiện, như vậy bị can đã có hành vi tàng trữ 4,815gam loại thuốc phiện với mục đích để sử dụng, hành vi tàng trữ chất ma túy của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù. Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 có quy định tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Điều 249 đây là tội phạm được tách ra từ tội ghép theo Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định có khung hình phạt tù từ 01 đến 05 năm tù. Trong vụ án này số lượng ma túy bị cáo tàng trữ là không lớn; ngoài mục đích sử dụng ra bị cáo không còn mục đích nào khác do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; đảm bảo quyền lợi của bị cáo và tính nhân đạo của pháp luật đối với người có hành vi phạm tội.

 [3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, trực tiêp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ tuy không lớn, nhưng nếu không được ngăn chặn kịp thời chất độc hại này sẽ được đưa vào cơ thể con người làm suy thoái giống loài, nếu để lây lan, trôi nổi trong xã hội làm cho tệ nạn ma túy tại địa phương ngày càng phức tạp. Do đó bị cáo cần phải bị trừng trị thích đáng nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

 [4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

 [5] Xét về nhân thân của bị cáo: Bị cáo là người có nhân thân tốt thể hiện bị cáo chưa có tiền án tiền sự, ngoài lần phạm tội này bị cao luôn chấp hành chủ trương đường lối, pháp luật của nhà nước. Tuy nhiên theo báo cáo của chính quyền địa phương bị cáo thường xuyên vắng mặt tại nơi cư trú không rõ lý do. Do đó để trừng trị đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đảm bảo cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

 [6] Đối với người đã trực tiếp bán ma túy cho bị cáo HĐXX xét thấy hành vi mua bán đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải bị xử lý hình sự, nhưng quá trình điều tra không xác định được đối tượng nên không có căn cứ để xử lý ở vụ án này, đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý ở vụ án khác.

 [7] Vật chứng thu giữ của vụ án: Quá trình giám định đã sử dụng hết

 [8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy lẽ ra ngoài hình phạt tù, bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; nhưng xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, tài sản không có gì nên không áp dụng hình pháp bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo: Lò Văn C phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng khoản 3 Điều 7, điểm b khoản 1 Điều 249 điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo: Lò Văn C 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 29/12/2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136  Bộ Luật tố tụng hình sự  năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016, buộc bị cáo Lò Văn C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng)

Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 16/5/2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2018/HS-ST ngày 16/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:44/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về