Bản án 44/2018/HS-ST ngày 19/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG LÔ - TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 44/2018/HS-ST NGÀY 19/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 47/2018/HSST, ngày 07 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Trung T, sinh ngày 17 tháng 5 năm 1998; Sinh trú quán: Thôn T. H, xã Đôn Nhân, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; bố: Không; mẹ Nguyễn Thị H, sinh năm 1975; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; tiền sử: Ngày 20/10/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Sông Lô ra Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi Trộm cắp tài sản. Ngày 24/10/2015 chấp hành xong trở về địa phương; bị tạm giam từ ngày 31/8/2018 đến nay,(có mặt).

Bị hại: Trường mầm non xã Đ. N, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc; người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Lan – Hiệu trưởng,(vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nhà ở của Nguyễn Trung T ở ngay phía sau Trường mầm non xã Đ. N, huyện Sông Lô nên Tuyến thường xuyên ra vào trường mầm non chơi. Tuyến quan sát vào buổi tối trong trường không có người trông coi tài sản nên Tuyến nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của nhà trường đem bán lấy tiền tiêu sài. Trong hai ngày 25/8/2018 và 26/8/2018, Tuyến hai lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của nhà trường. Cụ thể như sau:

Lần 1: Khoảng 18 giờ ngày 25/8/2018, T đi bộ một mình từ nhà và cầm theo 01 thanh sắt dài 58,5cm, có một đầu dẹt đi vào trong trường để trộm cắp tài sản. Tuyến đi bộ lên tầng 2, thấy cửa phòng hành chính của nhà trường khóa ngoài, Tuyến lấy đầu dẹt của thanh sắt đúc vào quai khóa, dùng lực ấn từ trên xuống dưới làm lẫy khóa bung ra. T vào trong phòng tháo và lấy được 01 màn hình máy tính nhãn hiệu AOC, 01 cây máy tính nhãn hiệu FPT. T đem cây máy tính cùng màn hình vừa tháo được mang về nhà cất giấu số tài sản trên tại kho của gia đình T. Sau đó, T tiếp tục quay lại phòng hành chính tháo lấy 01 cây máy tính nhãn hiệu JAGUAR, 01 chuột dây máy tính mitsumi, 01 bàn phím FPT. T mang toàn bộ số tài sản trên để ra ngoài hành lang, rồi khép cửa, cài then và cài ổ khóa. T mang số tài sản trộm cắp được về cất giấu tại kho nhà T.

Lần 2: Khoảng 23 giờ ngày 26/8/2018, T tiếp tục đi bộ một mình từ nhà, cầm theo thanh sắt trên và 01 đèn pin, loại đội đầu đi vào trường để trộm cắp tài sản. T đi bộ đến văn phòng tầng 2 nhà điều hành, thấy cửa ngoài khóa, vẫn cách thức trên, Tuyến mở được cửa và đi vào trong phòng lấy được 01 đàn Ocgan PSR-S550 rồi mang về kho nhà T cất giấu.

Sau khi phát hiện mất tài sản, bà Nguyễn Thị L hiệu trưởng Trường Mầm non xã Đôn Nhân có đơn trình báo Công an huyện Sông Lô.

Ngày 27/8/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Lô đã triệu tập Tuyến đến làm việc. Quá trình làm việc, Tuyến đã thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như nêu trên và tự nguyện giao nộp toàn bộ số tài sản trộm cắp được của nhà trường cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Lô.

Ngày 29/8/2018 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sông Lô có kết luận định giá số 46/KLĐG, kết luận: 01 màn hình máy tính nhãn hiệu AOC có giá trị 300.000đ; 01 cây máy tính nhãn hiệu FPT có giá trị 1.640.000đ; 01 cây máy tính nhãn hiệu JAGUAR có giá trị 1.000.000đ; 01 chuột máy tính Mitsumi có giá trị 14.000đ; 01 bàn phím FPT có giá trị 24.000đ và 01 đàn ocgan nhãn hiệu Yamaha PSR-S5550 có giá trị 4.200.000 đồng. Tổng giá trị tài sản Tuyến trộm cắp được là 7.178.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định: 01 cây máy tính nhãn hiệu FPT, 01 cây máy tính nhãn hiệu JAGUAR, 01 màn hình máy tính nhãn hiệu AOC, 01 chuột dây máy tính nhãn hiệu Mitsumi, 01 bàn phím FPT, 01 đàn Ocgan Yamaha PSR- S550 là các tài sản hợp pháp của Trường Mầm non xã Đ. N. Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại các tài sản trên cho nhà trường để phục vụ công tác giảng dạy. Bà Nguyễn Thị L – Hiệu trưởng đã nhận lại toàn bộ số tài sản trên. Đối với 02 chiếc khóa Việt Tiệp đã bị hỏng, không còn giá trị sử dụng, bà Lan không yêu cầu nhận lại. Ngoài ra, không có yêu cầu, đề nghị gì khác.

Đối với chiếc đèn pin, loại đội đầu T dùng để soi sáng, làm công cụ thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra, Tuyến khai để ở nhà, Công an huyện Sông Lô đã tìm kiếm nhưng không thu giữ được.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 thanh sắt dài 58,5cm, 02 ổ khóa nhãn hiệu Việt Tiệp.

Tại Cáo trạng số 48/CT-VKS ngày 06/11/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô đã truy tố Nguyễn Trung T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô luận tội đối với bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố. Sau khi đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam (ngày 31/8/2018). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và đề xuất quan điểm xử lý vật chứng vụ án.

Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình, ăn năn hối hận, bị cáo nhất trí với bản luận tội của đại điện viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Lô, Điều tra viên, Viện kiểm sátnhân dân huyện Sông Lô, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, phù hợp lời khai của bị hại tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu khác đã được thu thập đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án thể hiện:

Trong khoảng thời gian 02 ngày, từ ngày 25/8/2018 đến ngày 26/8/2015, Nguyễn Trung T 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của Trường mầm non xã Đ. N, huyện Sông Lô. Cụ thể: Khoảng 18 giờ ngày 25/8/2018, Tuyến vào phòng hành chính của nhà trường trộm cắp 01 màn hình máy tính nhãn hiệu AOC, 01 cây máy tính nhãn hiệu FPT, 01 cây máy tính nhãn hiệu JAGUAR, 01 chuột dây máy tính mitsumi, 01 bàn phím FPT, trị giá các tài sản trên là 2.978.000 đồng. Đến khoảng 23 giờ ngày 26/8/2018, Tuyến vào văn phòng của nhà trường trộm cắp 01 đàn Ocgan PSR-S550, trị giá 4.200.000 đồng. Tổng trị giá tài sản T trộm cắp được là 7.178.000 đồng.

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Do vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. 

Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng ...., thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Vậy cần phải xử lý nghiêm để cải tạo riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đó là phạm tội từ 02 lần trở lên và có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi, nhân thân, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy cần phải áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội vì bản thân bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Sông Lô ra Quyết định số 13 ngày 20/10/2014 đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi Trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà đến nay lại tiếp tục có hành vi phạm tội về tội chiếm đoạt tài sản.

Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập và không có tài sản gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu đề nghị gì nên không xem xét.

Về vật chứng vụ án: Đối với 02 chiếc khóa Việt Tiệp đã bị hỏng, không còn giá trị sử dụng và 01 thanh sắt dài 58,5cm Tuyến sử dụng làm công cụ thực hiện hành vi phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

Quá trình điều tra xác định: 01 cây máy tính nhãn hiệu FPT, 01 cây máy tính nhãn hiệu JAGUAR, 01 màn hình máy tính nhãn hiệu AOC, 01 chuột dây máy tính nhãn hiệu Mitsumi, 01 bàn phím FPT, 01 đàn Ocgan Yamaha PSR- S550 là các tài sản hợp pháp của Trường Mầm non xã Đ. N. Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại các tài sản trên cho nhà trường là phù hợp quy định của pháp luật.

Về án phí: Bị cáophạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung T phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam (ngày 31/8/2018).

Căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 02 chiếc khóa Việt Tiệp đã bị hỏng và 01 thanh sắt dài 58,5cm (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/11/2018 giữa Công an và

Chi cục thi hành án dân sự huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc).

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Buộc bị cáo Nguyễn Trung T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp trên để yêu cầu xét xử phúc thẩm, bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2018/HS-ST ngày 19/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:44/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Lô - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về