Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 04/09/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa chị V và anh Q

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T1, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 44/2019/HNGĐ-ST NGÀY 04/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH GIỮA CHỊ V VÀ ANH Q

Ngày 04 tháng 9 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 175/2019/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 36/2019/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thùy V, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Tổ x, khu yz, phường VD, TP U, tỉnh Q (vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Ngô Xuân Q, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Thôn HN, xã ĐQ, huyện T1, tỉnh Thái Bình (vắng mặt có đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Thùy V trình bày:

Chị và anh Ngô Xuân Q, sinh năm 1991, có địa chỉ tại thôn HN, xã ĐQ, huyện T1, tỉnh Thái Bình tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau vào ngày 25/9/2017 được Uỷ ban nhân dân phường VD, TP U, tỉnh Q chứng nhận kết hôn.

Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc được khoảng một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh Q không tu chí làm ăn, tính tình vợ chồng không hợp. Anh chị đã sống ly thân từ tháng 7 năm 2018 cho đến nay. Nay xác định tình cảm không còn, không thể quay về chung sống và đoàn tụ được nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Ngô Xuân Q.

Về con chung, chị V xác định chị và anh Ngô Xuân Q có 01 con chung là Ngô Nguyễn Đức K, sinh ngày 14/01/2019. Chị V xin được nuôi con chung và không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản chung, chị V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 25/7/2019 tại Trụ sở UBND xã ĐQ, ông Ngô Xuân H, sinh năm 1964, có địa chỉ tại thôn HN, xã ĐQ, huyện T1, tỉnh Thái Bình (ông Huyền là bố đẻ anh Ngô Xuân Q) trình bày:

Con trai ông là Ngô Xuân Q và chị Nguyễn Thị Thùy V tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn với nhau vào tháng 9 năm 2017 tại Uỷ ban nhân dân phường VD, TP U, tỉnh Q. Sau khi kết hôn Q và chị V sinh sống tại TP U, tỉnh Q. Anh Q và chị V ở với nhau được khoảng 03 tháng thì vợ chồng mâu thuẫn, chị V bỏ về nhà ngoại, gia đình ông cũng đã động viên và khuyên hai anh chị nhưng cả hai anh chị đều không nghe. Đến Tết năm 2019, gia đình ông có lên thăm cháu nội nhưng chị V không tiếp. Vợ chồng anh Q và chị V có 01 con chung là Ngô Nguyễn Đức K, sinh ngày 14/01/2019, hiện nay cháu K đang ở cùng mẹ là chị V. Chị V làm đơn xin ly hôn anh Q gia đình ông có biết, đã nhiều lần khuyên hai anh chị đoàn tụ nhưng không được. Sau khi Tòa án thụ lý vụ việc, ông và gia đình đã thông báo cho anh Q biết, gia đình ông và anh Q thống nhất là nếu chị V nhất quyết xin ly hôn thì anh Q và gia đình ông cũng đồng ý. Con chung còn nhỏ nên giao lại cho chị V chăm sóc. Về tài sản thì hai vợ chồng chưa tạo dựng được gì. Hiện nay, anh Q đi làm ở địa phương khác nhưng vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình. Gia đình có nhận được các giấy báo, văn bản tố tụng của Tòa án và gia đình đều gọi điện thông báo cho anh Q biết. Qua điện thoại anh Q có ý kiến là do công việc bận không về Tòa án giải quyết được nên đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị Nguyễn Thị Thùy V được ly hôn anh Ngô Xuân Q. Về con chung, giao con chung Ngô Nguyễn Đức K, sinh ngày 14/01/2019 cho chị V được trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Ngô Xuân Q; anh Q có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Về tài sản chung, do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả giải quyết tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Thùy V vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn là anh Ngô Xuân Q vắng mặt có đề nghị xét xử vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị V và anh Q.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thùy V và anh Ngô Xuân Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ yêu cầu giải quyết ly hôn của chị V cung cấp phù hợp với các tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập trong quá trình giải quyết vụ án nên xác định: Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc được khoảng một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp. Anh chị đã sống ly thân từ tháng 7 năm 2018 cho đến nay, chị V đã về nhà ngoại sinh sống. Chị V có đơn xin ly hôn anh Q, qua gia đình, anh Q đồng ý. Như vậy, có thể thấy tình cảm vợ chồng của chị V và anh Q đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xử cho chị Nguyễn Thị Thùy V được ly hôn anh Ngô Xuân Q.

[3] Về con chung: Chị V và anh Q có 01 con chung là Ngô Nguyễn Đức K, sinh ngày 14/01/2019. Giao con chung cho chị V được trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Ngô Xuân Q; anh Q có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở, vấn đề thay đổi nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.

[4] Về tài sản chung: Do các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thùy V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Xử cho chị Nguyễn Thị Thùy V được ly hôn anh Ngô Xuân Q.

2. Về con chung:

Giao con chung Ngô Nguyễn Đức K, sinh ngày 14/01/2019 cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Ngô Xuân Q; anh Q có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở, vấn đề thay đổi nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.

3. Về tài sản chung:

Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí:

Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Thùy V phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, khấu trừ số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị V đã nộp theo Biên lai số 0009162 ngày 10/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T1, tỉnh Thái Bình. Chị Nguyễn Thị Thùy V đã nộp đủ án phí.

5. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Thùy V; bị đơn là anh Ngô Xuân Q vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 04/09/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa chị V và anh Q

Số hiệu:44/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về