Bản án 44/2019/HSST ngày 04/10/2019 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHƯỚC LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 44/2019/HSST NGÀY 04/10/2019 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án Nhân dân thị xã Phước Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 47/2019/HSST ngày 10 tháng 9 năm 2019 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 46/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo;

Họ và tên: Nguyễn Nhật Thi S; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1983; Tại: Bình Phước; Nơi cư trú: Khu phố B, phường L, thị xã P, tỉnh Bình Phước; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ học vấn: 9/12; Cha: Nguyễn Văn T, sinh năm 1959; Mẹ: Nguyễn Thị G, sinh năm 1964; Vợ: Tô Thị Thanh T, S năm 1989 và 01 người con sinh năm 2009; Bị cáo có 05 chị em lớn nhất sinh năm 1981, nhỏ nhất sinh năm 1993, bị cáo là con thứ 2 trong gia đình;

Tiền án; Tiền sự: không; Ngày 27/6/2018 phạm tội Cố ý làm hư hỏng tài sản, đến ngày 07/7/2019 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phước Long khởi tố bị cáo và áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú để điều tra. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/6/2019 đến ngày 07/7/2019 được tại ngoại. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

Người bị hại: Ông Đoàn Đình V, sinh năm 1982. (vắng mặt)

Trú tại: Thôn P, xã B, huyện P, tỉnh Bình Phước.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1981. (Có mặt)

Trú tại: Khu phố B, phường L, thị xã P, tỉnh Bình Phước.

2. Ông Dương Minh X, sinh năm 1982. (vắng mặt)

Trú tại: Khu phố B, phường S, thị xã P, tỉnh Bình Phước.

Người làm chứng: Chị Tô Thị Thanh T, sinh năm: 1989. (vắng mặt)

Trú tại: Khu phố N, phường L, thị xã P, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Nhật Thi S và Đoàn Đình V ở thôn P, xã B, huyện P có mâu thuẫn phát sinh từ việc vào năm 2016, do làm ăn thua lỗ nên chị gái của S là Nguyễn Thị L ở khu phố 3, phường Long Phước có nợ của bà Huỳnh Thị Hòa ở khu phố Phước Trung, phường Phước Bình số tiền là 326.000.000 đ. Do nhiều lần đến nhà L để đòi nợ nhưng không trả nên bà Hoà đã ủy quyền cho Đoàn Đình V thay mình đòi nợ chị L. Sau khi được uỷ quyền đi đòi nợ thì V nhiều lần lên nhà mẹ của chị L là bà Nguyễn Thị G ở khu phố B, phường L yêu cầu bà G đứng ra nhận nợ thay chị L thì bà G đồng ý. Sau khi bà G đứng ra nhận nợ thay nhưng vẫn chưa có trả tiền cho mình nên V nhiều lần đến nhà bà G gây sức ép buộc bà G trả tiền. Thấy vậy, S là con trai bà G đã gặp, nói chuyện với V và hứa đến ngày 25/6/2019 sẽ trả tiền cho V. Nhưng đến ngày hẹn không thấy S trả tiền nên V nhiều lần đến nhà mẹ ruột và mẹ vợ của S để tìm S nhưng không gặp và có những lời lẽ xúc phạm đến S và gia đình S.

Khoảng 10 giờ 00 ngày 27/6/2019, S đến nhà bạn tên Dương Minh X ở khu phố B, phường S để nhậu cùng X, lúc S đang ở nhà anh X thì V gọi điện thách thức “mày ra quán đi, tao chặt chân của mày” rồi V tắt máy. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày thì nhậu xong, do bực tức vì V có những lời lẽ xúc phạm đến mình và gia đình nên S đi ra phía sau nhà X lấy 01 con dao bầu dấu vào trong áo rồi đi ra mượn xe mô tô biển số: 93K1-182.99 của X để đi ra quán nhậu “BBQ 109K” (Quán này là của gia đình nhà vợ của S) tại khu phố N, phường L để tìm V. Khi đến quán, S thấy xe ô tô Camry, Bs: 93A-100.72 của V đang đỗ trước quán nên S dựng xe mô tô ở lề đường rồi cầm dao đi vào quán tìm V. Khi thấy V đang ngồi nhậu cùng vợ mình là Tô Thị Thanh T và khoảng 04 đến 05 người bạn của T, S cầm dao chạy lại định chém V thì mọi người can ngăn lại và tước được dao trên tay S, S liền lấy 01 cái kẹp gắp đá bằng Inox, dài khoảng 20 cm lao vào đâm 01 cái sượt cằm và tay của V. Thấy vậy, V liền bỏ chạy ra và mở cửa ô tô lấy 01 con dao rựa dài khoảng 0,8m định đi vào đuổi chém S thì thấy S từ trong quán chạy ra hai tay cầm 02 con dao đuổi theo thấy vậy, V liền bỏ chạy. S liền đi lại lấy 01 dụng cụ đựng than bằng kim loại có cán dài 0,6 m đập phá kiếng xe và nhiều bộ phận của xe ô tô Camry, Bs: 93A-100.72 khiến kiếng chắn gió phía sau, kiếng hông bên tài xế và phụ xe bị bể, một số bộ phận của xe bị trầy xước.

Nhận được tin báo của quần chúng nhân dân Công an phường L có mặt kịp thời bắt giữ S sau đó lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 01 dụng cụ gắp đá bằng inox, 01 dụng cụ đựng than bằng kim loại có cán dài 0,6m, 01 con dao bầu, 01 con dao thái thịt, 01 con dao rựa, 01 chiếc Điện thoại di động hiệu Nokia 1280 và 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Camry biển số: 93A-100.72.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phước Long, S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Căn cứ bản kết luận định giá tài sản số 16 ngày 03/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Phước Long kết luận: Tại thời điểm ngày 27/6/2019 giá trị thiệt hại của các bộ phận hư hỏng của xe ô tô biển số 93A-100.72 như sau:

- Kính chắn gió phía sau 2.000.000 đồng x 40% = 800.000 đồng;

- 02 cái chắn mưa: 250.000 đồng x 40% = 100.000 đồng;

- Kính hông bên trái phía sau: 850.000 đồng x 40% = 340.000 đồng;

- Nẹp cửa bên phải phía trước: 500.000 đồng x 40% = 200.000 đồng;

- Đánh bóng vết trầy 03 tấm kiếng: 300.000 đồng;

- Sơn dặm cảng, cửa hông bên phải phía sau, cửa trước bên trái bị trầy: 500.000 đồng.

Tổng cộng giá trị tài sản thiệt hại yêu cầu định giá: 2.240.000 đồng.

Đối với 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Camry biển số: 93A-100.72 là tài sản hợp pháp của bị hại Đoàn Đình V nên ngày 03/7/2019 Cơ quan CSĐT Công an thị xã Phước Long đã trả lại cho anh V, anh V đã nhận lại tài sản; Chị Nguyễn Thị L đã đứng ra sửa lại xe cho V hết 4.700.000 đồng, V không có yêu cầu gì thêm và đã làm đơn xin bãi nại và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho S.

Đối với số tiền 4.700.000 đồng mà chị L đã bỏ ra sửa xe cho V, chị L không yêu cầu S phải trả lại nên không đề cập đến.

Đối với 01 mô tô biển số: 93K1-182.99 mà S mượn của X để đi đến quán; Quá trình điều tra xác định trước khi sự việc phạm tội xảy ra X đã đến lấy lại xe, mặt khác khi X cho S mượn xe, X không biết S sử dụng vào mục đích phạm tội nên không đề cập xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 35/CT-VKS ngày 06 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long đã truy tố Nguyễn Nhật Thi S về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, vì vậy đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 178, điểm b, s, i khoản 1 khoản 2 Điều 51; các điều 50, 35 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Nhật Thị S mức án từ 10.000.000 triệu đồng đến 15.000.000 đồng.

Vật chứng vụ án: Đối với 01 dụng cụ gắp đá bằng inox, 01 dụng cụ đựng than bằng kim loại có cán dài 0,6m, 01 con dao bầu, 01 con dao thái thịt, 01 con dao rựa là tang vật của vụ án đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280 là phương tiện liên lạc để phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phat.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau;

[1]. Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thị xã Phước Long, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long đã truy tố đối với bị cáo, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở để khẳng định:

Khoảng 10 giờ 00 ngày 27/6/2019, S đến nhà bạn tên Dương Minh X ở khu phố B, phường S để nhậu cùng X, lúc S đang ở nhà anh X thì V gọi điện thách thức “mày ra quán đi, tao chặt chân của mày” rồi V tắt máy. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày thì nhậu xong, do bực tức vì V có những lời lẽ xúc phạm đến mình và gia đình nên S đi ra phía sau nhà X lấy 01 con dao bầu dấu vào trong áo rồi đi ra mượn xe mô tô biển số: 93K1-182.99 của X để đi ra quán nhậu “BBQ 109K” (Quán này là của gia đình nhà vợ của S) tại khu phố N, phường L để tìm V. Khi đến quán, S thấy xe ô tô Camry, Bs: 93A-100.72 của V đang đỗ trước quán nên S dựng xe mô tô ở lề đường rồi cầm dao đi vào quán tìm V. Khi thấy V đang ngồi nhậu cùng vợ mình là Tô Thị Thanh T và khoảng 04 đến 05 người bạn của T, S cầm dao chạy lại định chém V thì mọi người can ngăn lại và tước được dao trên tay S, S liền lấy 01 cái kẹp gắp đá bằng Inox, dài khoảng 20 cm lao vào đâm 01 cái sượt cằm và tay của V. Thấy vậy, V liền bỏ chạy ra và mở cửa ô tô lấy 01 con dao rựa dài khoảng 0,8m định đi vào đuổi chém S thì thấy S từ trong quán chạy ra hai tay cầm 02 con dao đuổi theo thấy vậy, V liền bỏ chạy. S liền đi lại lấy 01 dụng cụ đựng than bằng kim loại có cán dài 0,6 m đập phá kiếng xe và nhiều bộ phận của xe ô tô Camry, Bs: 93A-100.72 khiến kiếng chắn gió phía sau, kiếng hông bên tài xế và phụ xe bị bể, một số bộ phận của xe bị trầy xước. Tổng cộng giá trị tài sản thiệt hại yêu cầu định giá: 2.240.000 đồng.

Bị cáo Nguyễn Nhật Thi S nhận thức rõ hành vi làm hư hỏng tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, sẽ bị pháp luật nghiêm trị, song vì động cơ cá nhân muốn dùng vũ lực để đạt mục đích cá nhân S đã cố ý trực tiếp thực hiện tội phạm, thể hiện thái độ của S coi thường pháp luật rất rõ.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long đã truy tố các bị cáo là đúng hành vi, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương.

Xét tính chất mực độ hậu quả hành vi phạm tội bị cáo gây ra cần áp dụng mức hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cũng xét tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo đã tự nguyện sửa chữa tài sản do minh gây thiệt hại; giá trị tài sản bị thiệt hại không lớn; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; nguyên nhân dẫn đến bị cáo phạm tội cũng một phần do lỗi của người bị hại; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; bản thân bị cáo là lao động chính trong gia đình và hiện phải nuôi con nhỏ. Đây là những tình tiết xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo quy định tại các điểm b, i, h, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu gi thêm nên HĐXX không xem xét.

Đối với số tiền 4.700.000 đồng mà chị L đã bỏ ra sửa xe cho V, chị L không yêu cầu S phải trả lại nên HĐXX không xem xét.

[3]. Về vật chứng vụ án:

Đối với 01 dụng cụ gắp đá bằng inox, 01 dụng cụ đựng than bằng kim loại có cán dài 0,6m, 01 con dao bầu, 01 con dao thái thịt, 01 con dao rựa là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280 là phương tiện liên lạc để phạm tội cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Đối với 01 mô tô biển số: 93K1-182.99 mà S mượn của X để đi đến quán; Quá trình điều tra xác định trước khi sự việc phạm tội xảy ra X đã đến lấy lại xe, mặt khác khi X cho S mượn xe, X không biết S sử dụng vào mục đích phạm tội nên không đề cập xử lý.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Nhật Thi S phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

Áp dụng vào khoản 1 Điều 178, khoan 1 Điều 35, điểm b, s, h, i khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 50 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Nhật Thị S 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu Việt Nam đồng) sung quỹ nhà nước.

[2]. Về vật chúng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sư; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280.

Tịch thu tiêu hủy 01 dụng cụ gắp đá bằng inox, 01 dụng cụ đựng than bằng kim loại có cán dài 0,6m, 01 con dao bầu, 01 con dao thái thịt, 01 con dao rựa.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 0003588 ngày 11 tháng 9 năm 2019 của Chi cục Thị hành án dân sự thị xã Phước Long)

[3]. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tai phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niên yết tại chính quyền địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

763
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2019/HSST ngày 04/10/2019 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

Số hiệu:44/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phước Long - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về