Bản án 44/2019/HS-ST ngày 11/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC BÌNH - TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 44/2019/HS-ST NGÀY 11/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2019/TLST-HS, ngày 21 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2019/QĐXXST-HS, ngày 19 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Minh T (Tên gọi khác: Đ), sinh ngày 18/8/2002 tại tỉnh Bình Thuận. Nơi cư trú: Khu phố LH, thị trấn LS, huyện BB, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn L và bà Lê Thị Bòn B; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

-Người đại diện hợp pháp của bị cáo:

1. Ông Trần Văn L, sinh năm 1978 (cha ruột); (Có mặt)

2. Bà Lê Thị Bòn B, sinh năm 1980 (mẹ ruột); (Có mặt)

Cùng địa chỉ: Khu phố LH, thị trấn LS, huyện BB, tỉnh Bình Thuận.

-Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Trường D – Trợ giúp viên pháp lý; (Có mặt)

Địa chỉ: Chi nhánh trợ giúp pháp lý số 3, thị trấn CL, huyện BB, Bình Thuận.

-Bị hại: Bà Lê Xuân Thụy V, sinh năm 1974; địa chỉ: Khu phố XA1, thị trấn CL, huyện BB, tỉnh Bình Thuận. (Có mặt)

-Người tham gia tố tụng khác:

+Người làm chứng: Ông Phan Văn M; (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 29/12/2018, Trần Minh T (tên gọi khác: Đ) đi bộ đến chòi rẫy thanh long của bà Lê Xuân Thụy V để tìm tài sản trộm cắp. Do sợ chòi rẫy có người nên T đi ra đám rẫy thanh long thì gặp bà V, T thấy ngồi nói chuyện với bà V một lúc thì đi về nhà.

Sau đó, V vào chòi rẫy thanh long và để 02 chiếc điện thoại lên bàn tròn trong chòi rẫy gồm 01 điện thoại di động hiệu OPPO A3S màu đỏ và 01 điện thoại di động hiệu Mobistar màu trắng rồi ra rẫy thanh long làm việc.

Khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, T lén lút đi vào chòi rẫy, T đến bàn tròn và lấy đi 02 điện thoại di động gồm 01 điện thoại di động hiệu OPPO A3S màu đỏ và 01 điện thoại di độnghiệu Mobistar màu trắng của Lê Xuân Thụy V bỏ vào túi quần rồi đi về nhà. T cất giấu chiếc điện thoại OPPO vào tủ kính còn chiếc điện thoại Mobistar T mang theo trên người, T điều khiển xe mô tô của gia đình đến tiệm Internet ở khu phố Lương Nam, thị trấn LS, huyện Bắc Bình với mục đích là cầm thế chiếc điện thoại này lấy tiền chơi game.

Khi T rời đi, Lê Xuân Thụy V nhìn thấy, nghi ngờ nên V vào lại chòi rẫy thì phát hiện mất 02 chiếc điện thoại đã để trên bàn tròn, V mượn điện thoại và gọi cho ông Phan Văn M (là chồng của V) thông báo về việc mất điện thoại và nghi ngờ T là người lấy trộm. Ông Minh gọi điện thoại cho bà Lê Thị Bòn B, là mẹ của T thông báo cho bà Bon biết việc T lấy trộm điện thoại, bà Lê Thị Bòn B đã gọi điện thoại cho T và yêu cầu T đem tài sản vừa lấy trộm giao nộp cho cơ quan công an, đồng thời bà Lê Xuân Thụy V cũng có đơn báo mất tài sản gửi công an trình bày về sự việc trên. Cơ quan chức năng đã mời T cùng mẹ là Lê Thị Bòn B đến làm việc và lập biên bản thu giữ tang vật.

Tại kết luận định giá tài sản số: 04/2019/HĐĐG-TTHS ngày 22/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bắc Bình đã kết luận:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobistar màu trắng, mua năm 2015, đơn giá: 300.000 đồng/cái, tỉ lệ sử dụng còn lại: 50%; thành tiền: 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng);

- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO A3S màu đỏ, mua tháng 10/2018, đơn giá: 4.700.000 đồng/cái, tỉ lệ sử dụng còn lại: 80%; thành tiền: 3.760.000 đồng (Ba triệu bảy trăm sáu mươi nghìn đồng).

Tổng cộng giá trị tài sản mà T đã lấy trộm là: 3.910.000 đồng (Ba triệu chín trăm mười nghìn đồng).

Quá trình điều tra, T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, T còn khai nhận trước đây cũng đã 02 lần trộm cắp tiền của V với tổng số tiền là 5.200.000 đồng, tiền này T chủ yếu tiêu xài cá nhân và chơi game. T không nhớ rõ những lần thực hiện việc trộm tiền nhưng khoảng trước tháng 7 năm 2018;

Bà Lê Xuân Thụy V khai: Tôi nghi ngờ T lấy trộm 02 điện thoại di động vì thấy T đi ra sân từ chòi rẫy, tôi đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác. Việc làm đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho T là tôi tự nguyện do tôi nhận thấy tôi đã nhận được tài sản, bị cáo T còn nhỏ, chưa suy nghĩ chính chắn nên mới thực hiện các hành vi trộm cắp. Đối với 02 lần trộm cắp tài sản trước đây của T, tôi và gia đình T đã thỏa thuận thực hiện xong việc bồi thường toàn bộ số tiền 5.200.000 đồng với gia đình của T.

Bà Lê Thị Bòn B khai: Tôi là mẹ của Trần Minh T, ngày 29/12/2018 tôi có nghe được tin T lấy trộm tài sản của chị V nên đã yêu cầu T giao nộp lại tài sản tại cơ quan công an. Đối với 02 lần trộm cắp tiền của chị V, tôi và chị V đã thỏa thuận thực hiện xong việc bồi thường bên ngoài. Tôi xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho Trần Minh T.

Ông Trần Văn L thống nhất như lời trình bày của bà Lê Thị Bòn B và không bổ sung ý kiến gì khác.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình giữ nguyên quan điểm tại Bản cáo trạng số: 32/CT-VKS.HBB ngày 20 tháng 5 năm 2019 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 173, điểm i, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 91; Điều 101; Điều 38; Điều 65 Bộ luật hình sự; đề nghị tuyên bố bị cáo Trần Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; đề nghị tuyên phạt bị cáo Trần Minh T từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng.

Ý kiến tranh luận của người bào chữa cho bị cáo Trần Minh T: Thống nhất với bản cáo trạng và luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình. Tuy nhiên, vì bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên xin hội đồng xét xử xem xét áp dụng mức hình phạt nhẹ nhất là 06 tháng tù và cho bị cáo được hưởng án treo.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đồng ý với luận tội của vị đại diện viện kiểm sát, bị cáo và người đại diện hợp pháp, bị hại không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng của bị cáo mong hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo để có cơ hội trở thành công dân tốt cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện BB, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Minh T không có ý kiến, cũng như không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo, bị hại và người đại diện hợp pháp của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 29/12/2018, bị cáo Trần Minh T đã vào chòi rẫy của bà Lê Xuân Thụy V lén lút lấy 02 điện thoại di động gồm 01 điện thoại di động hiệu OPPO A3S màu đỏ và 01 điện thoại di động hiệu Mobistar màu trắng với tổng giá trị tài sản trộm cắp là 3.910.000 đồng (Ba triệu chín trăm mười nghìn đồng), bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản khi đã đủ 16 tuổi, cho nên hành vi của bị cáo đã đủ điều kiện cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy, cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình đối với bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng quy định pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Quyền sở hữu tài sản là một trong những khách thể được pháp luật bảo vệ, không ai được quyền xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác khi chưa được họ cho phép. Bị cáo Trần Minh T nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản là trái quy định pháp luật nhưng do lười biếng, ham chơi, muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác mà còn ảnh hưởng đến trật tự trị an của địa phương, gây hoang mang, lo lắng cho xã hội. Vì vậy, cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc cho bị cáo để đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Minh T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, tài sản đã được thu hồi và giao trả cho bị hại, bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sẽ áp dụng khi lượng hình đối với bị cáo.

[6] Bị cáo Trần Minh T thực hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, nhận thức về phạm luật còn hạn chế, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tội phạm bị cáo thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, bị cáo có nơi cư trú ổn định, do đó, căn cứ vào Điều 91; khoản 1 Điều 101; Điều 65 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử nhận thấy không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo và giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục để bị cáo có cơ hội trở thành công dân tốt cho xã hội.

[7] Đối với 02 lần thực hiện hành vi trộm tiền của bị cáo T, do không rõ thời gian thực hiện hành vi mà chỉ xác định là trước tháng 7 năm 2018 thì T chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật. Gia đình T cùng bà Lê Xuân Thụy V thống nhất tự thỏa thuận bồi thường và bà V không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án này. Công an huyện Bắc Bình có công văn yêu cầu chính quyền địa phương xử phạt vi phạm hành chính đối với T về hành vi trên là đúng quy định pháp luật.

[9] Về tang, vật chứng của vụ án: Tài sản đã được thu hồi và giao trả cho bị hại nên không xem xét, giải quyết.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[11] Luận tội của vị đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình và luận cứ bào chữa của luật sư là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật;

[13] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; khoản 1 Điều 101; Điều 38; Điều 65 Bộ luật hình sự 2015; Tuyên bố: Bị cáo Trần Minh T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”, Xử phạt: Bị cáo Trần Minh T 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (Mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (11-7- 2019).

Giao Trần Minh T cho Ủy ban nhân dân thị trấn LS, huyện BB, tỉnh Bình Thuận quản lý và giáo dục. Trong trường hợp Trần Minh T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu Trần Minh T cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc Trần Minh T phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí sơ thẩm: áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án. Buộc bị cáo Trần Minh T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4.Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (11-7-2019)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2019/HS-ST ngày 11/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:44/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Bình - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về