Bản án 45/2017/HSST ngày 20/07/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 45/2017/HSST NGÀY 20/07/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 7  năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 42/2017/HSST ngày 25 tháng 5 năm 2017 đối với bị cáo:

Bùi Thanh T, sinh năm: 1984, tại Kiên Giang. Tên gọi khác: Lắc.

Nơi ĐKHKTT: Tổ 4, ấp CX, thị trấn KL, huyện KL, tỉnh Kiên Giang. Chỗ ở: Ấp BM, xã PT, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

Trình độ học vấn: 07/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không

Con ông Bùi Phú T1 – 1959 và bà Lê Thị L – 1962, hiện ở huyện KL, tỉnh Kiên Giang;

Anh, chị, em ruột: Có 02 người, bị cáo là thứ nhất;

Tiền án: Ngày 17/5/2006, bị Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xử phạt 12 (mười hai) năm tù về tội “Hiếp dâm trẻ em”, chấp hành xong ngày 17/10/2016.

Tiền sự: Ngày 25/11/2003, bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Kiên giang đưa vào cơ sở giáo dục về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”.

Bắt tạm giam từ ngày 06/02/2017 đến nay.

Người bị hại: Ông Trần Văn O – 1952 và bà Nguyễn Thị T – 1958.

HKTT: Thôn MĐ 4, xã MT, huyện CL, tỉnh Đồng Tháp.

Chỗ ở: Ấp BM, xã PT, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

(Có mặt bị cáo, vắng mặt người bị hại)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Với ý định trộm cắp xe mô tô làm phương tiện đi lại. Khoảng 10 giờ ngày 05/02/2017 Bùi Thanh T đi bộ ngang nhà ông Trần Văn O, trú tại ấp BM, xã PT, huyện TP, tỉnh Đồng Nai nhìn thấy một xe mô tô hiệu SWEET, biển số 52M8 –8729 dựng trong sân nhà, chìa khóa xe cắm trong ổ khóa khóa nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. Sau khi quan sát không thấy người trông coi, T đi đến mở khóa xe mô tô biển số 52M8 – 8729 rồi điều khiển xe bỏ chạy. Khi điều khiển xe chạy đến khu 7, ấp 1, xã GC, huyện ĐQ, tỉnh Đồng Nai thì xe bị hư nên T đưa xe vào tiệm sửa xe của anh Trần Văn T1 để sửa chữa. Sau khi sửa xong do không có tiền trả nên T đã hỏi anh T1 để bán xe trộm cắp. Nhưng anh T1 không đồng ý mua, T để lại xe rồi bỏ trốn.

Trị giá tài sản thiệt hại: Bản kết luận định gía tài sản số 03/KL – HĐĐGTS ngày 08/02/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Phú xác định xe mô tô hiệu SWEET, biển số 52M8 – 8729 trị giá 2.430.000đ. Hiện nay, đã thu hồi trao trả chủ sở hữu.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận T bộ hành vi của mình theo đúng nội dung vụ án nêu trên.

Bản cáo trạng số 41/CT-VKS-HS ngày 18 tháng 5 năm 2017, VKSND huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Bùi Thanh T về tội “Trộm căp tai san” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử:  Áp dụng khoản 1 Điều 138,  điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự và đề xuất mức án đối với bị cáo Bùi Thanh T từ 12 (mười hai) tháng đến 14 (mười bốn) tháng tù; người bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì khác nên không xem xét. Về án phí đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì đối với Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú.

Bị cáo có lời nói sau cùng như sau: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật và rất hối hận đối với hành vi đã gây ra. Bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về xã hội, trở thành một công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Thanh T thừa nhận: Khoảng 10 giờ ngày 05/02/2017, tại ấp BM, xã PT, huyện TP, tỉnh Đồng Nai. Bùi Thanh T đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 xe mô tô hiệu SWEET, biển số 52M8 – 8729, trị giá 2.430.000đ của ông Trần Văn O.  Xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người đúng tội.

[3]. Hành vi của bị cáo không những vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ; gây bức xúc, lo sợ, hoang mang, dao động, làm mất trật tự trị an và an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo T thực hiện hành vi trên với lỗi cố ý trực tiếp. Bản thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Vì vậy, xét thấy cần xử lý bị cáo theo pháp luật hình sự là cần thiết, cần tuyên mức án tương xứng với hành vi và hậu quả mà bị cáo đã gây ra, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục, răn đe bị cáo trở thành công dân tốt và đảm bảo công tác phòng ngừa tội phạm tại địa phương.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã có 01 tiền án, chưa được xóa án tích, nay tiếp tục phạm tội là tái phạm, do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự.

[5]Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự .

[6]. Về các biện pháp tư pháp: Ông Trần Văn O đã nhận lại tài sản là 01 xe mô tô hiệu SWEET, biển số 52M8 – 8729. Ông Trần Văn O và bà Nguyễn Thị T không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Theo quy định tại Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát về việc đánh giá tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điêu 46, điểm g khoản 1 Điêu 48 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Thanh T 01 (một) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính kể từ ngày 06/02/2017.

Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Bùi Thanh T phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2017/HSST ngày 20/07/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:45/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về