Bản án 45/2018/HS-ST ngày 22/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH G

BẢN ÁN 45/2018/HS-ST NGÀY 22/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 22 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2018/TLST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2018/QĐXXST-HS ngày 12/11/2018 đối với bị cáo:

Lương Hồng P, sinh ngày 30/9/1991 tại G. Trú tại: Ấp A, xã L, huyện C, tỉnh G; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lương Văn Q, sinh năm 1970 và bà Lê Thị H, sinh năm 1973; Bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Diễm C, sinh năm 1993, Bị cáo có 01 người con tên Lương Nguyễn P H, sinh năm 2011, bị cáo là con một trong gia đình; Tiền án, tiền sự: Không; Tiền sử: 01 lần ngày 14/12/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách là 18 tháng, về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999; được sửa đổi, bổ sung năm 2009; Bị cáo chấp hành xong thời gian thử thách ngày 28/3/2013, chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm, tiền thu nhập bất chính sung hủy nhà nước ngày 26/10/2018.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/10/2018 đến ngày 12/10/2018, chuyển tạm giam ngày 12/10/2018 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cai Lậy. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

1. Phạm Thị H, sinh năm 1982 (có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện T, tỉnh Đ.

Tạm trú: Ấp A, xã L, huyện C, tỉnh G.

2. Lữ Ngọc Tuyết N, sinh ngày 18/3/2001 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện C, tỉnh G.

Người giám hộ cho bị hại: Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1979 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện C, tỉnh G.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lê Văn B, sinh năm 1962 (có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện C, tỉnh G.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 00 giờ ngày 07/10/2018, Lương Hồng P, sinh ngày 30/9/1991, nơi cư trú: Ấp A, xã L, huyện C, tỉnh G, nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài. P đi đến nhà của chị Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1979 cùng ấp, leo qua rào lưới B40 để vào nhà thì phát hiện cửa nhà sau không có khóa, trên bộ ván có người Đ ngủ bên cạnh có một cái điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy J6 màu tím của em Lữ Ngọc Tuyết N, sinh năm 2001 (là con của chị Đ ) và một điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy J6 màu tím của chị Phạm Thị H, sinh năm 1982 (là bạn của chị Đ), nơi cư trú: Ấp B, xã T, huyện T, tỉnh Đ. P liền đến lấy trộm hai cái điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy J6 màu tím cất giấu vào túi quần rồi tẩu thoát. Trên đường tẩu thoát không xác định được địa điểm cụ thể, P đã tháo lấy hai cái sim điện thoại cùng 1 ốp lưng điện thoại quăn mất. Sáng ngày 07/10/2018, P đem hai cái điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy J6 màu tím đến nhà anh Lê Văn B, sinh năm 1962, nơi cư trú: Ấp A, xã L, huyện C, tỉnh G cầm với giá 5.000.000 đồng và tiêu xài cá nhân hết.

Vật chứng thu giữ gồm: Một máy điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy J6 màu tím, một máy điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy J6 màu tím máy bị bể màn hình phía trên bên phải.

Bản kết luận định giá tài sản số 40, ngày 12/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Cai Lậy xác định: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy J6 màu tím trị giá 3.174.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy J6 màu tím, bị bể màn hình phía trên bên phải trị giá 1.851.000 đồng, sim điện thoại 0986.765.723 trị giá 75.000 đồng; sim điện thoại 0817.099.975 trị giá 75.000 đồng; ốp lưng điện thoại trị giá 60.000 đồng, tổng giá trị tài sản là 5.235.000 đồng.

Trong quá trình điều tra Lương Hồng P đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

 Tại bản cáo trạng số 48/CT-VKSCL ngày 09/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh G truy tố Lương Hồng P về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Trong phần tranh luận, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cai Lậy phát biểu quan điểm giải quyết vụ án đã đưa ra những chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lương Hồng P phạm tội “Trộm cắp tài sản”, xử phạt từ 6 tháng đến 9 tháng tù giam.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cai Lậy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cai Lậ y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo khai nhận: Khoảng 00 giờ ngày 07/10/2018, tại Ấp A, xã L, huyện C, tỉnh G, bị cáo Lương Hồng P có hành vi trộm cắp một máy điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy J6 màu tím cùng sim và ốp lưng điện thoại của Lữ Ngọc Tuyết N và một máy điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy J6 màu tím máy bị bể màn hình phía trên bên phải cùng sim điện thoại của chị Phạm Thị H, tổng giá trị tài sản là 5.235.000 đồng.

Lời khai nhận trên của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại và người liên quan cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cai Lậy truy tố bị cáo Lương Hồng P phạm tội “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, là một trong những khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự địa phương, gây hoang mang trong nhân dân. Bị cáo biết rõ việc trộm cắp tài sản của người khác, sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc nhưng do muốn tiền tiêu xài cá nhân mà trộm cắp tài sản để chơi game bắn cá, xét về nhân thân bị cáo có nhân thân xấu nên cần xử phạt bị cáo nghiêm khắc.

Đối với anh Lê Văn B có hành vi cầm hai điện thoại di động do bị cáo lấy trộm được, nhưng anh B không biết đây là tài sản do phạm tội mà có, nên cơ quan tiến hành tố tụng không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh B là hoàn toàn phù hợp. Đối với số tiền 5.000.000 đồng, bị cáo cầm hai điện thoại cho anh B, sau khi hai điện thoại bị cơ quan điều tra thu hồi, bị cáo vẫn chưa bồi thường số tiền 5.000.000 đồng lại cho anh B, nhưng anh B có đơn xin xét xử vắng mặt và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Trong phần xét hỏi và tranh luận, các ý kiến của đại diện Viện kiểm sát đã làm rõ hơn động cơ, mục đích và hoàn cảnh phạm tội của bị cáo, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà bị cáo đã có hành vi trộm cắp tài sản của người khác. Trước đây, bị cáo đã từng bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về tội trộm cắp tài sản, tuy nhiên, sau khi chấp hành xong thời gian thử thách bị cáo vẫn không sửa đổi mà còn tiếp tục trộm cắp nên cần xử phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Phạm Thị H và Lữ Ngọc Tuyết N đã nhận lại được điện thoại di động, không có yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, định khung hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt là có cơ sở, phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận. Tuy nhiên, đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự của đại diện Viện kiểm sát là chưa phù hợp nên không được chấp nhận. Bởi vì, sau khi chấp hành xong thời gian thử thách của án treo và trong thời hạn quy định tại Điều 70 của Bộ luật Hình sự thì bị cáo mới thực hiện hành vi phạm tội mới. Đối với nghĩa vụ đóng án phí hình sự sơ thẩm và buộc nộp tiền thu nhập bất chính, bị cáo mới thực hiện nộp ngày 26/10/2018 sau ngày bị cáo phạm tội mới là ngày 07/10/2018, tuy nhiên, đến ngày bị cáo phạm tội mới thì thời hiệu thi hành các quyết định khác về tài sản của bản án trước đã hết hiệu lực thi hành nên xem như bị cáo đã chấp hành xong hình phạt chính và các quyết định khác của bản án nên đương nhiên được xóa án tích và không thuộc trường hợp tái phạm.

[8] Bị cáo Lương Hồng P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Xử:

1. Tuyên bố bị cáo Lương Hồng P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lương Hồng P 09 (Chín) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/10/2018.

3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 ngàn đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo, bị hại và người giám hộ cho bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh G xét xử theo trình tự thủ tục P thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2018/HS-ST ngày 22/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:45/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về