Bản án 45/2018/HSST ngày 25/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIÊN KHÁNH ,TỈNH KHÁNH HÒA  

BẢN ÁN 45/2018/HSST NGÀY 25/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 47/2018/HSST ngày 23 tháng 8 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2018/HSST-QĐ ngày 10 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Trần Xuân T - sinh năm 1981, tại Khánh Hòa; Tên gọi khác: Th; Nơi đăng ký NKTT: Thôn 3, xã S, huyện D, tỉnh K; Nghề nghiệp: không; dân tộc: kinh; giới tính: nam; Tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn 11/12; Con ông Trần Q (sinh năm 1956) và bà Nguyễn Thị L (sinh năm 1957); Vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: ngày 25/4/2017 bị Công an xã S xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”; bị cáo tạm giam ngày 02/7/2018, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Trần Phương - sinh năm 1989.

Địa chỉ: Tổ dân phố 2, thị trấn D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa. (Vắng mặt).

2. Công ty cổ phần cơ khí và xây dựng T

Địa chỉ: Thôn C, xã B, huyện Đ, tp H.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Đỗ Văn H – sinh năm 1985 (văn bản ủy quyền số 114/CK45-UQ ngày 01/6/2018). (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên Tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 25/4/2017, Trần Xuân T bị Công an xã D xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.

Vào khoảng 09 giờ 00 ngày 01/3/2018, Trần Xuân T đi bộ để nhặt phế liệu bán lấy tiền tiêu xài, khi đến khu vực bờ kè khu đô thị N (tổ dân phố 2, thị trấn D) T phát hiện trong sân nhà ông Trần Phương có dựng 01 cuộn lưới B40 (kích thước 1,6m x 4,5 m) nên nảy sinh ý định trộm cắp. T lén lút đi vào nhà ông T, dùng tay nâng cuộn lưới lên vai rồi đi ra ngoài. Khi đến trước nhà số X Hùng Vương, tổ dân phố 2, thị trấn D thì bị Công an thị trấn D phát hiện cùng tang vật.

Sau đó, vào khoảng 12 giờ 30 ngày 09/5/2018, T đi dọc đường Hùng Vương để tìm cơ hội trộm cắp tài sản. Khi đến khu vực công trình thi công cầu vượt (tổ dân phố 2, thị trấn D) do Công ty cổ phần cơ khí và xây dựng T xây dựng, T phát hiện bên trong để thép xây dựng không có người trông coi. T lén lút đi vào, dùng tay nâng 02 bó thép xây dựng (gồm 12 thanh thép, mỗi thanh có độ dài 2,67 mét và đường kính 1,4cm) lên vai rồi đi bộ dọc đường Hùng Vương để tìm nơi tiêu thụ thì bị Công an thị trấn D phát hiện cùng tang vật.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 16/KL-HĐĐGTS ngày 04/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện D xác định tại thời điểm xảy ra vụ việc, cuộn lưới B40, kích thước 1,6m x 4,5m có giá trị là 320.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 20/KL-HĐĐGTS ngày 28/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện D xác định tại thời điểm xảy ra vụ việc, 12 thanh kim loại có giá trị là 576.000 đồng.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện D, T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số: 44/CT-VKSDK ngày 21/8/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh K đã truy tố bị cáo Trần Xuân T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D vẫn giữ nguyên về điều luật và tội danh của bị cáo Tuấn như bản cáo trạng đã nêu. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; Áp dụng điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Trần Xuân T từ 06 tháng đến 09 tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày 02/7/2018. Về trách nhiệm dân sự: Đã trả cho chủ sở hữu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về tố tụng: Tại phiên tòa, bị hại vắng mặt. Tuy nhiên, tài sản đã được trả cho chủ sở hữu; những người này không có yêu cầu về dân sự và sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án cũng như quyền lợi của họ. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thầm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [3] Tại phiên toà bị cáo Trần Xuân T đã khai nhận toàn bộ về hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị hại và vật chứng thu được đã có đủ căn cứ để kết luận Trần Xuân T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự ngang nhiên, xem thường pháp luật, lợi dụng sự sơ hở của người khác để trộm cắp tài sản, bị cáo là thanh niên có sức khỏe, trong độ tuổi lao động nhưng không tu chí làm ăn mà đi trộm cắp. Bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Do vậy, phải cần được xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, tại phiên toà cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về lỗi lầm của mình, bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn, tài sản đã được thu hồi trả cho các bị hại, bị cáo đã từng phục vụ trong quân đội. Vì vậy cần được xem xét các tình tiết này để giảm nhẹ về mặt hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo sớm trở thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; áp dụng tình tiết giảm nhẹ là điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; áp dụng tình tiết tăng nặng là điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận.

[6] Về vật chứng vụ án: Đã trả lại cho chủ sở hữu nên không xét.

 [7] Về trách nhiệm dân sự: Tại hồ sơ thể hiện bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên không xem xét.

 [8] Về án phí: Bị cáo Trần Xuân T phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố:

Bị cáo Trần Xuân T (Th) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt : Bị cáo Trần Xuân T (Th) 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 02/7/2018.

Về trách nh iệm dân sự : Không xem xét.

Về án phí : Bị cáo Trần Xuân T phải nộp 200.000 đồng tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Toà án tỉnh Khánh Hoà xét xử phúc thẩm. Riêng bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2018/HSST ngày 25/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:45/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diên Khánh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về