Bản án 45/2019/HS-ST ngày 03/10/2019 về tội cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GIA NGHĨA, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 45/2019/HS-ST NGÀY 03/10/2019 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã G, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 51/2019/TLST-HS ngày 27/8/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2019/QĐXXST-HS ngày 20/9/2019 đối với bị cáo:

Lê Trọng V, sinh năm 1985, tại tỉnh Đắk Nông; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 10A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; chỗ ở hiện nay: Không nơi ở nhất định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Trọng Đ và bà Nguyễn Thị T; chưa có vợ, con; tiền án; tiền sự: Không.

Về nhân thân: Tháng 4/2015, Lê Trọng V phạm tội trộm cắp tài sản. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 34/2015/HSST ngày 15/7/2015 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng xử phạt Lê Trọng V 18 tháng tù. Ngày 12/10/2016 chấp hành xong hình phạt.

Năm 2018, thực hiện hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Ngày 14/3/2019, Lê Trọng V bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, tỉnh Đắk Nông khởi tố và truy nã.

Bị bắt tạm giam từ ngày 13/5/2019 - có mặt.

- Bị hại: Anh Hoàng Văn T, sinh năm: 1988.

Nơi ĐKHKTT: Thôn S, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

Chỗ ở hiện nay: Tổ 4, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông - có mặt.

- Người làm chứng:

- Bà Lê Thị T, sinh năm: 1971 - vắng mặt không có lý do.

- Anh Trịnh Đình D, sinh năm 1980 - vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 14/3/2019, Lê Trọng V bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, tỉnh Đắk Nông truy nã về hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, để tránh bị phát hiện nên V thường xuyên thay đổi nơi ở trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. Ngày 05/5/2019, V một mình đón xe buýt từ huyện Đđến thị xã G, tỉnh Đắk Nông rồi thuê nhà trọ L tại tổ 2, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông để nghỉ lại qua đêm.

Khong 09 giờ ngày 06/5/2019, do không có tiền để trả tiền phòng nên V nhờ anh Trịnh Đình D, trú tại tổ dân phố 4, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông lái xe ôm trở đến nhà nghỉ T tại tổ 4, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông (Do anh Chu Văn D làm chủ) tìm anh Hoàng Văn T, trú tại tại tổ 4, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông để mượn tiền. Do trước đó vào tháng 4/2019, V thường xuyên đến nhà nghỉ Thanh Hằng để thuê phòng ở nên quen biết với anh T (anh T là nhân viên quản lý nhà nghỉ). Đến nơi V hỏi mượn anh T số tiền 250.000 đồng thì anh T đồng ý. Khi anh T mở ví lấy tiền đưa cho V thì V thấy trong ví của anh T có nhiều tiền nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền này. Sau khi mượn tiền của anh T, V trả cho anh D 70.000 đồng tiền xe ôm và 180.000 đồng tiền thuê nhà trọ L. Sau đó, anh D về còn V ở lại nhà nghỉ T nói chuyện với anh T tại quầy lễ tân.

Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, anh T đi xuống bếp nấu ăn thì V cùng đi xuống. Lúc này, thấy nhà nghỉ vắng người nên V có ý định đánh anh T để lấy tài sản. Khi anh T đang cầm chảo nấu ăn trong bếp và đứng quay lưng về phía V thì V đứng từ phía sau cách anh T khoảng 01m, V lấy 01 con dao loại dao chặt bằng inox để trên kệ bếp, dùng tay phải cầm dao đứng từ phía sau chém 01 nhát từ trên xuống dưới thì trúng vào vùng đầu phía sau của anh T. Bị V chém nên anh T cầm chảo quay lại, V tiếp tục dùng dao chém ngang 01 nhát từ phải sang trái trúng vào vùng đỉnh đầu của anh T làm bay mất một miếng da đầu. Sau khi chém, V cầm dao chỉ về phía anh T và nói “Thả xuống, đừng ép anh không là anh giết”, anh T bỏ chảo xuống nền nhà rồi nói “Đừng giết em”, thì V nói “Anh không giết mày, tình thế ép buộc thôi”. Sau đó, anh T ngồi xuống thì V yêu cầu anh T lấy ví và điện thoại đặt xuống nền nhà rồi V lấy dây điện có sẵn trong bếp trói tay của anh T ra phía sau. Do thấy đầu anh T chảy nhiều máu nên V lên phòng lễ tân cắt 02 mảnh vải băng bó vết thương đầu cho anh T rồi nhét giẻ vào miệng để anh T không thể tri hô người đến cứu; V tiếp tục lấy dây điện trong bếp trói chân của anh T lại rồi lục lọi xung quanh nhà tìm kiếm tài sản có giá trị để lấy nhưng không tìm được. Sau đó, Vũ lấy số tiền 3.000.000 đồng trong ví da và 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu vàng của anh T rồi bỏ trốn khỏi hiện trường. Sau khi V bỏ đi, anh T tự cởi trói và chạy ra ngoài đường Quốc lộ 14 nhờ người dân đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Đ và trình báo sự việc với Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã G, tỉnh Đắk Nông. Đến ngày 13/5/2019, V bị bắt giữ.

Hu quả: Anh Hoàng Văn T bị 01 vết thương khuyết da vùng đỉnh đầu và 01 vết thương hở vùng chẩm.

Ti Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 204/TgT ngày 28/6/2019, của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Đ kết luận: Hoàng Văn T bị nứt bản ngoài xương sọ chiều dài đường nứt trên 3cm, tỷ lệ 10%; sẹo vết thương phần mềm tỷ lệ 09%, cộng lùi bằng 8,1%. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 18,1%, làm tròn bằng 18%.

Ti Bản kết luận định giá tài sản số 28/BB-HĐĐG ngày 14/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên tố tụng hình sự thị xã Gia Nghĩa kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu vàng trị giá 2.800.000 đồng.

- Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật:

+ 01 con dao bằng inox, loại dao chặt, bản dao có kích thước 18,5x9,5cm, cán bằng gỗ, dạng cán vuông kích thước 2x13cm (Là tài sản của ông Chu Văn D).

+ 01 ổ điện nhãn hiệu MINSO, dạng dây tròn dài, màu đen 4,7m, phích cắm dạng 02 chốt, 01 đầu bị cắt để lộ lõi đồng, dây cột thắt (Là tài sản của ông Chu Văn D).

+ 01 vết máu màu đỏ sẫm (Nghi là máu).

+ 01 mảnh kính vỡ có kích thước 13x12cm, trên bề mặt có dích 01 vết máu đỏ sẫm (Nghi là máu).

+ 01 miếng da đầu có nhiều tóc, kích thước 5,5x1,75cm.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu vàng, vỏ điện thoại bị cong vênh, màn hình điện thoại bị nứt vỡ (Tài sản của anh Hoàng Văn T).

+ Đối với số tiền 3.000.000 đồng, V đã tiêu xài hết nên không thu giữ được.

- Việc xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 vết màu đỏ sẫm; 01 mảnh kính vỡ trên bề mặt có dính 01 vết màu đỏ sẫm và 01 mảnh da đầu có dấu hiệu hư hỏng, thối rữa nên ngày 09/8/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã G, tỉnh Đắk Nông đã tiến hành tiêu hủy theo quy định.

+ Đối với 01 con dao bằng inox, 01 dây điện và 01 ổ điện là phương tiện phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Phần dân sự: Anh Hoàng Văn T yêu cầu Lê Trọng V bồi thường số tiền 67.500.000 đồng, hiện V chưa bồi thường.

Ti bản Cáo trạng số 43/CT-VKS ngày 26 tháng 8 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã G đã truy tố Lê Trọng V về tội "Cướp tài sản" theo các điểm c, d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự.

Kết quả tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố. Sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử áp các điểm c, d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Trọng V từ 11 năm tù đến 12 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Do Lê Trọng V hiện tại không có tài sản, chưa có việc làm và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 6 Điều 168 của Bộ luật Hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Hoàng Văn T yêu cầu Lê Trọng V bồi thường số tiền 54.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Chấp nhận ngày 09/8/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã G đã tiến hành tiêu hủy 01 vết màu đỏ sẫm; 01 mảnh kĩnh vỡ trên bề mặt có dính 01 vết màu đỏ sẫm và 01 mảnh da đầu có dấu hiệu hư hỏng, thối rữa (có đặc điểm như trong biên bản thu giữ).

- Tịch thu tiêu hủy 01 con dao bằng inox, 01 dây điện và 01 ổ điện là phương tiện phạm tội do không còn giá trị sử dụng (có đặc điểm như trong biên bản thu giữ).

Ti phiên tòa, bị hại anh Hoàng Văn T yêu cầu Lê Trọng V phải bồi thường số tiền bị cướp, điện thoại di động bị vỡ màn hình, tiền viện phí, tiền thuê xe taxi, tiền tổn thất tinh thần, tiền mất thu nhập trong thời gian điều trị, tiền công người chăm sóc tổng cộng số tiền là 54.000.000 đồng.

Ti phiên tòa, bị cáo thừa nhận việc Viện kiểm sát truy tố về tội "Cướp tài sản" theo các điểm c, d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự là đúng, không oan và không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và đồng ý bồi thường cho anh Hoàng Văn T số tiền 54.000.000 đồng.

Ti phiên tòa, người làm chứng bà Lê Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, anh Trịnh Đình D vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Bà T và anh D đã có lời khai đầy đủ trong quá trình điều tra được lưu trong hồ sơ vụ án, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng theo quy định tại Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thị xã Gia Nghĩa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Trọng V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan cảnh sát điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác được thu thập hợp pháp được lưu trong hồ sơ vụ án. Các chứng cứ buộc tội và quan điểm đề nghị xử lý của đại diện Viện kiểm sát đối với Lê Trọng V. Hội đồng xét xử nhận định:

Khong 09 giờ ngày 06/5/2019, do không có tiền tiêu xài, Lê Trọng V đi xe ôm đến nhà nghỉ T tại tổ 4, phường Nghĩa Tân, thị xã G, tỉnh Đắk Nông để hỏi vay tiền anh Hoàng Văn T, V được anh T cho mượn 250.000 đồng. Khi anh T mở ví V thấy trong ví có nhiều tiền nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, khi anh T đang cầm chảo nấu ăn trong bếp thì V lấy 01 con dao loại dao chặt bằng inox để trên kệ bếp, dùng tay phải cầm dao đứng từ phía sau chém 01 nhát từ trên xuống dưới trúng vào vùng đầu phía sau của T. V tiếp tục dùng dao chém ngang 01 nhát từ phải sang trái trúng vào vùng đỉnh đầu của anh T làm bay mất một miếng da đầu. Sau đó, V lấy dây điện có sẵn trong bếp trói tay của anh T ra phía sau. Do thấy đầu anh T chảy nhiều máu nên V lên phòng lễ tân cắt 02 mảnh vải băng bó vết thương đầu cho anh T rồi nhét giẻ vào miệng để anh T không thể tri hô người đến cứu; V tiếp tục lấy dây điện trong bếp trói chân của anh T lại rồi lấy số tiền 3.000.000 đồng trong ví da và 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu vàng của anh T bỏ trốn đến ngày 13/5/2019 thì bị bắt giữ.

Hu quả: Anh Hoàng Văn T bị 01 vết thương khuyết da vùng đỉnh đầu và 01 vết thương hở vùng chẩm.

Ti Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 204/TgT ngày 28/6/2019, của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Đ kết luận: Hoàng Văn T bị nứt bản ngoài xương sọ chiều dài đường nứt trên 3cm, tỷ lệ 10%; sẹo vết thương phần mềm tỷ lệ 09%, cộng lùi bằng 8,1%. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 18,1%, làm tròn bằng 18%.

Ti Bản kết luận định giá tài sản số 28/BB-HĐĐG ngày 14/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên tố tụng hình sự thị xã G kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu vàng trị giá 2.800.000 đồng.

Như vậy hành vi của Lê Trọng V đã đủ yếu tố cấu thành tội "Cướp tài sản" tội phạm và hình phạt được quy định tại các điểm c, d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự.

Điều 168 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%.

d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

….

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó không những trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe, tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu cụ thể: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 34/2015/HSST ngày 15/7/2015 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Đà Nẵng xử phạt Lê Trọng V 18 tháng tù. Ngày 12/10/2016 chấp hành xong hình phạt (đã được xóa án tích). Năm 2018, thực hiện hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Ngày 14/3/2019, Lê Trọng V bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, tỉnh Đắk Nông khởi tố và truy nã nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội nên cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm minh nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo, đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật.

[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình đây tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cần áp dụng cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[5] Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội.

[6] Tại phiên tòa, qua phần tranh luận, xét quan điểm về đường lối xử lý vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã G, tỉnh Đắk Nông là có phần nghiêm khắc nên cần áp dụng mức hình phạt tương xứng phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm mà bị cáo gây ra.

[7] Về việc bồi thường thiệt hại: Anh Hoàng Văn T yêu cầu Lê Trọng V phải bồi thường số tiền tổng cộng là 54.000.000 đồng. Lê Trọng V cũng đồng ý bồi thường cho anh T số tiền này nên cần buộc V phải bồi thường cho anh T số tiền 54.000.000 đồng là phù hợp.

[8] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Chấp nhận ngày 09/8/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã G, tỉnh Đắk Nông đã tiến hành tiêu hủy 01 vết màu đỏ sẫm; 01 mảnh kĩnh vỡ trên bề mặt có dính 01 vết màu đỏ sẫm và 01 mảnh da đầu có dấu hiệu hư hỏng, thối rữa (có đặc điểm như trong biên bản thu giữ).

- Tịch thu tiêu hủy 01 con dao bằng inox, 01 dây điện và 01 ổ điện là phương tiện phạm tội do không còn giá trị sử dụng (có đặc điểm như trong biên bản thu giữ).

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng các điểm c, d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố Lê Trọng V phạm tội “Cướp tài sản”.

Xử phạt Lê Trọng V 10 (mười) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam (ngày 13/5/2019).

2. Về bồi thường thiệt hại: Buc Lê Trọng V phải bồi thường cho anh Hoàng Văn T số tiền 54.000.000đ (Năm mươi bốn triệu đồng).

Khi Bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày anh Hoàng Văn T có đơn yêu cầu thi hành án, Cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành mà Lê Trọng V không trả số tiền nêu trên thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Chấp nhận ngày 09/8/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã G, tỉnh Đắk Nông đã tiến hành tiêu hủy 01 vết màu đỏ sẫm; 01 mảnh kĩnh vỡ trên bề mặt có dính 01 vết màu đỏ sẫm và 01 mảnh da đầu có dấu hiệu hư hỏng, thối rữa (có đặc điểm như trong biên bản thu giữ).

- Tịch thu tiêu hủ 01 con dao bằng inox, 01 dây điện và 01 ổ điện là phương tiện phạm tội do không còn giá trị sử dụng (có đặc điểm như trong biên bản thu giữ).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc Lê Trọng V phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và án 2.700.000đ (Hai triệu, bảy trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm tại Chi cục Thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

416
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2019/HS-ST ngày 03/10/2019 về tội cướp tài sản

Số hiệu:45/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Gia Nghĩa - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về