Bản án 461/2018/HNGĐ-ST ngày 15/11/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 461/2018/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 962/2018/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 5 năm 2018, về việc tranh chấp “Ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 384/2018/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 714/2018/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trương Thị T, sinh năm 1990; vắng mặt;

Địa chỉ cư trú: 97/2 tổ 5, khu phố 2, phường L, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đ Nai.

2. Bị đơn: Ông Lê Văn Đ, sinh năm 1990; vắng mặt;

Địa chỉ cư trú: 56 tố 16, khu phố 6, phường L, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đ

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 12/4/2018, lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Trương Thị T trình bày:

Bà và ông Lê Văn Đ qua thời gian tìm hiểu đã tự nguyện đi đến hôn nhân từ năm 2011, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hải An, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Quá trình chung sống ban đầu vợ chồng hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm về cuộc sống, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, vì vậy thường xuyên xảy ra tranh cãi, xung đột và không tôn trọng nhau. Vợ chồng bà đã nhiều lần tìm cách giải quyết nhưng không hiệu quả, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Nay bà xác định tình cảm không còn, nên xin được ly hôn với ông Đ.

Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Gia K, sinh ngày 03 tháng 02 năm2013. Khi ly hôn, bà xin được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu K, không yêu cầuông Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.

- Bị đơn ông Lê Văn Đ đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt, không đến Tòa án làm việc và không có bản khai nộp Tòa án.

- Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại phiên tòa:

Về tố tụng: Việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử tiến hành tố tụng đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Việc thu thập chứng cứ đầy đủ, khách quan, thời hạn tố tụng được đảm bảo và các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ. Phiên tòa được thực hiện dân chủ, bình đẳng. Nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, bị đơn không thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung: Căn cứ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của nguyên đơn, biên bản xác minh tại địa phương xét thấy các đương sự đã không thể hàn gắn được, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần mà không có mặt. Điều đó cũng chứng tỏ rằng ông Đ đã không còn quan tâm đến cuộc sống hôn nhân. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà T. Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Gia K, sinh ngày 03 tháng 02 năm 2013, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận giao bà T trực tiếp nuôi dưỡng cháu K, tạm thời ông Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung, do bà T không yêu cầu. Tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét. Về án phí đề nghị giải quyết theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội Đ xét xử nhận định:

- Về tố tụng: Nguyên đơn bà Trương Thị T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, đề nghị của bà T phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, nên được chấp nhận. Bị đơn ông Lê Văn Đ đã được tống đạt hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa; Tòa án xét xử vắng mặt ông Đ theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan hệ hôn nhân: bà T và ông Đ là vợ chồng có đăng ký kết hôn và được Uỷ ban nhân dân xã Hải An, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 2011, nên được xác định là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, bà T khởi kiện vụ án xin ly hôn nên Hội Đ xét xử áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Theo bà T trình bày thì nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do mâu thuẫn về tình cảm, bên cạnh đó quan điểm sống của vợ chồng không đồng nhất, vì vậy thường xuyên xảy ra tranh cãi, xung đột và không tôn trọng nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ ông Đ đến làm việc nhưng ông Đ vắng mặt không có lý do. Điều đó chứng tỏ ông Đ đã bỏ mặc, không còn quan tâm đến cuộc sống hôn nhân. Qua xác minh tại địa phương, thể hiện bà T và ông Đ thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng thường hay to tiếng và xô xát nhau, ảnh hưởng đến khu trọ. Hiện nay ông bà không còn chung sống với nhau, mỗi người cư trú một nơi, đời sống chung vợ chồng là không có. Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa bà T và ông Đ không thể hàn gắn, đoàn tụ, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên giải quyết cho ly hôn.

- Về con chung: bà T và ông Đ có 01 con chung là cháu Lê Gia K, sinh ngày03 tháng 02 năm 2013. Ly hôn, bà T xin được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu K, không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu K hiện đang sống cùng bà T, đồng thời bà T cũng có đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc con chung, nên Hội đồng xét xử giao cháu K bà T chăm sóc, nuôi dưỡng, cho đến khi cháu đến tuổi trưởng thành và có khả năng lao động. Do bà T không yêu cầu nên tạm thời ông Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung và nợ chung: Do ông Đ không có lời khai nên không có cơ sở để xác định tài sản chung và nợ chung của vợ chồng. Bà T không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét. Nếu có phát sinh tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

- Về án phí: bà T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a, khoản 1, Điều 39; khoản 2, Điều 227 và Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng các Điều 85, 89, 91, 92 và 93 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị T;

Về quan hệ hôn nhân: bà Trương Thị T được ly hôn ông Lê Văn Đ.

Về con chung: Giao cháu Lê Gia K, sinh ngày 03 tháng 02 năm 2013 cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, cho đến khi cháu K đến tuổi trưởng thành và có khả năng lao động, tạm thời ông Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền đi lại thăm nom con chungkhông ai được cản trở.

Vì lợi ích của các con, khi cần thiết hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không giải quyết trong vụ án này.

Về án phí: bà T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng); được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp tại biên lai số 006906 ngày 26/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa; bà T đã nộp xong án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Bà Trương Thị T và ông Lê Văn Đ có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 461/2018/HNGĐ-ST ngày 15/11/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:461/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về