Bản án 46/2018/HNGĐ-ST ngày 01/11/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 46/2018/HNGĐ-ST NGÀY 01/11/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 01 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 181/2018/TLST-HNGĐ, ngày 10 tháng 9 năm 2018 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2018/QĐXX-ST ngày 09 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 26 ngày 23 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị H, sinh năm 1975; địa chỉ cư trú: Thôn 2, xã T,huyện K, thành phố Hải Phòng; có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Đức V, sinh năm 1974; địa chỉ cư trú: Thôn 4, xã T, huyện K, thành phố Hải Phòng; vắng mặt nhưng đã được triệu tập hợp lệ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 20/8/2018 và bản tự khai ngày 18/9/2018 chị H trình bày: Chị tự nguyện chung sống với anh Nguyễn Đức V từ năm 1995, có tổ chức cưới, sống công khai nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Nói chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 03 năm. Tuy nhiên trong thời gian sống chung mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ cuối năm 1998 do phong cách sống không còn phù hợp, anh V chơi bời cờ bạc, sống không chung thủy, không có trách nhiệm đến vợ con. Vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Mặc dù chị và gia đình đã nhiều lần khuyên bảo anh V thay đổi cách sống để vợ chồng trở lại sống đoàn tụ nhưng không thành. Chị bỏ về mẹ đẻ ở từ cuối năm 1998 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài; Chị xin ly hôn anh V.

Về con chung: Có 01 con là Nguyễn Đức C, sinh ngày 28/4/1996 hiện đã trưởng thành trên 18 tuổ i, nên không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh V vắng mặt, nhưng theo lời trình bày và yêu cầu của chị H. Tòa án đã xác minh và tống đạt trực tiếp giấy triệu tập ; thông báo thụ lý vụ án; thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ; thông báo về phiên họp; thông báo kết quả phiên họp của Tòa án cho trưởng thôn 4, xã T và chính quyền địa phương để giao lại các văn bản tố tụng trên. Anh V đã nhận đầy đủ các văn bản tố tụng trên nhưng không đến Tòa án và Ủy ban nhân dân xã T để trình bày lời khai; tham gia phiên họp; từ chối khai báo, vắng mặt không có lý do chính đáng. Sau đó Tòa án đã tống đạt trực tiếp và hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho trưởng thôn 4, xã T và Ủy ban nhân dân xã T để giao lại cho anh V. Anh V vẫn vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hộ i đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hộ i đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Nguyên đơn chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Bị đơn không chấp hành đầy đủ nghĩa vụ quy định tại khoản 15, 16 Đ iều 70,khoản 1 Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.Về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:

1. Về tố tụng: Anh V là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Đ iều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; đề nghị Hộ i đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

2. Về quan hệ hôn nhân: Chị H tự nguyện chung sống với anh V từ năm1995, không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 1998 phát sinh mâu thuẫn do phong cách sống không còn phù hợp, nghi ngờ nhau sống không chung thủy, anh V chơi bời cờ bạc, không có trách nhiệm đến vợ con. Vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Chị H bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ cuối năm 1998 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị H xin ly hôn anh V, Căn cứ điểm b khoản 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b Mục 2 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành LuậtHôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 14, Điều 51, Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình; Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố không công nhận chị Bùi Thị H và anhNguyễn Đức V là vợ chồng.

3. Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Nguyễn Đức C, sinh ngày 28/4/1996 nay đã trưởng thành trên 18 tuổi, không yêu cầu Tòa án giải quyết; nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy đ ịnh về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị H phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận đ ịnh:

 [1] Về tố tụng: Anh V là b ị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Đ iều 227; khoản 3 Đ iều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

 [2] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh V tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1995, không đăng ký kết hôn theo quy định c ủa pháp luật. Đánh giá chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 03 năm. Song trong thời gian sống chung mâu thuẫn phát sinh từ cuối năm 1998 do phong cách sống không còn phù hợp, nghi ngờ nhau sống không chung thủy, anh V chơi bời cờ bạc, không có trách nhiệm đến vợ con. Vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Chị H bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ cuối năm 1998 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị H xin ly hôn anh V, Căn cứ điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35/2000 của Quốc hội về v iệc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b Mục 2 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của Tòa án nhân dân\ tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình thì quan hệ hôn nhân của anh chị không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Cần xử tuyên bố không công nhận chị H và anh V là vợ chồng.

 [3] Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Nguyễn Đức C, sinh ngày 28/4/1996 hiện nay cháu C đã trưởng thành trên 18 tuổi, nên không đặt ra giải quyết.

 [4] Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

 [5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 3 Nghị quyết 35/2000 của Quốc hội; Căn cứ khoản 1 Điều 14 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Đ iều 147; đ iểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Đ iều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Đ iều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án,

1. Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận chị Bùi Thị H và anhNguyễn Đức V là vợ chồng.

2. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số AA.0006247 ngày 10 tháng 9 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Chị H đã chịu đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Chị H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh V có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

302
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2018/HNGĐ-ST ngày 01/11/2018 về ly hôn

Số hiệu:46/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về