Bản án 46/2018/HSST ngày 13/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 46/2018/HSST NGÀY 13/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN 

Ngày 13 tháng 3 năm  2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 22/2018/TLST-HS ngày 06 tháng 02 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2018/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2018, đối với bị cáo:

Đỗ Đức V, sinh năm 1986 tại Hải Phòng; nơi đăng ký HKTT: Thôn B, xã M, huyện T, Tp. Hải Phòng; chỗ ở: không có nơi ở ổn định; trình độ văn hóa: không đi học; nghề nghiệp: thợ khoan cắt bê tông; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Đức Q (đã chết) và bà Nguyễn Thị H;

Tiền án: Bản án số 125/2016/HSST ngày 27/6/2016, Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xử phạt Đỗ Đức V 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 21/01/2017, chấp hành xong hình phạt tù.

Tiền sự: không.

Bị bắt, tạm giam ngày 18 tháng 11 năm 2017. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu (có mặt)

- Bị hại:

1. Chị  Huỳnh Thị Kim T, sinh năm 1979; địa chỉ: 251 đường L, phường T, Tp. V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

2. Anh Nguyễn Tiến Th, sinh năm 1991; địa chỉ: 41/3A đường Đ, phường T, Tp. V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Đức V là đối tượng đã 01 lần bị kết án về tội trộm cắp tài sản, sau thời gian chấp hành án trở về địa phương không chí thú lao động, V tiếp tục thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản để lấy tiền tiêu xài, Cơ quan điều tra đã làm rõ được 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố V, cụ thể:

+ Vụ thứ nhất: Vào buổi tối một ngày trong tháng 8-2017, Đỗ Đức V đi bộ đến số nhà 251 đường L, phường T, thành phố V, V quan sát thấy đường vắng người nên trèo qua cửa cổng đi vào trong sân nhà thì phát hiện cửa sổ bên hông nhà không đóng. V tiến lại gần cửa sổ thấy bên trong nhà chị Huỳnh Thị Kim T đang ngủ, bên cạnh chị T để một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Pro, màu xanh đang cắm xạc pin. Vi quan sát xung quanh thấy một cây móc quần áo (loại cây móc quần áo bằng nhôm trong gia đình thường dùng treo quần áo), V liền lấy cây móc quần áo này bẻ lại cho thẳng tạo thành một cây móc rồi móc lấy trộm chiếc điện thọai về. Sau đó, V sử dụng chiếc điện thoại này.

Tại biên bản xác định giá trị tài sản số 07 ngày 15/01/2018 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự TP Vũng Tàu thì giá trị điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Pro, màu xanh trị giá là 3.500.000 đồng.

Cơ quan CSĐT Công an TP. V đã thu hồi lại được chiếc điện thoại di động trên và trả lại cho chị Huỳnh Thị Kim T, chị T nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm.

+ Vụ thứ hai: Vào buổi tối khoảng tháng 9/2017, Đỗ Đức V đi bộ đi đến số nhà 41/3A đường Đ, phường T, TP. V, V thấy cổng không khóa nên đã đi vào bên trong nhà này thấy có một dãy phòng trọ. V đi đến phòng trọ số 2 nhìn qua cửa sổ của phòng thấy anh Nguyễn Tiến Th (sinh năm: 1991, trú tại: 41/3A đường Đ, phường T, TP. V) đang ngủ, bên cạnh anh Th có một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Pro, màu xanh đang cắm sạc pin. V lấy chiếc móc quần áo này bẻ lại cho thẳng tạo thành một cây móc rồi dùng tay mở cửa sổ, móc trộm chiếc điện thoại đem về sử dụng.

Tại biên bản xác định giá trị tài sản số 07 ngày 15/01/2018 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự TP. Vũng Tàu thì giá trị điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Pro, màu xanh của anh Th lúc bị chiếm đoạt là 2.500.000đồng.

Cơ quan CSĐT Công an TP. Vũng Tàu đã thu hồi lại được điện thoại di động Samsung Galaxy J7 Pro, màu xanh và trả lại cho anh Nguyễn Tiến Th, anh Th nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm

Tại Cơ quan điều tra, bị can Đỗ Đức V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nêu trên.

Bản cáo trạng số 15/CT-VKS ngày 25-01-2018 của Viện kiểm sát nhân dân Tp. Vũng Tàu đã truy tố Đỗ Đức V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với Đỗ Đức V về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm o, p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù.

Bị cáo Đỗ Đức V đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã nêu trên. Bị cáo đã nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, vật chứng của vụ án và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng tháng 8 và tháng 9 năm 2017 trên địa bàn thành phố V, Đỗ Đức V đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samung Galaxy J7 Pro trị giá 3.500.000 đồng của chị Huỳnh Thị Kim T và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samung Galaxy J7 Pro trị giá 2.500.000 đồng của anh Nguyễn Tiến Th. Hành vi bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xét Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân, Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định hình phạt cao nhất là phạt tù đến 20 năm, do đó Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định hình phạt nhẹ hơn so với Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Nên áp dụng Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 để quyết định trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi của bị cáo: Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra là nguy hiêm cho xã hội , xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người bị hại được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị xử phạt hành chính, xử phạt tù về hành vi trộm cắp tài sản nhưng không biết sửa chữa bản thân, sống tôn trọng pháp luật mà lại cố ý phạm tội mới. Vì vậy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm, bị cáo thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản có giá trị trên 2.000.000 đồng nên thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự thú khai nhận hành vi phạm tội trước đó, tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm o, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 để giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Huỳnh Thị Kim T và anh Nguyễn Tiến Th đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu gì khác nên không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố:  Bị cáo Đỗ Đức V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015; điêm o, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999;

Xư phat : bị cáo Đỗ Đức V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18 tháng 11 năm 2017.

2. Án phi : Bị cáo Đỗ Đức V phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đông ) án phí hinh sư sơ thâm.

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án, đối với người vắng mặt tại phiên tòa thời hạn tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết, để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2018/HSST ngày 13/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:46/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về