Bản án 47/2018/HNGĐ-ST ngày 10/10/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 47/2018/HNGĐ-ST NGÀY 10/10/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 10 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 101/2017/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 11 năm 2017, về việc “Xin ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 27/8/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2018/QĐ-PT ngày 13/9/2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị N.

Địa chỉ: ấp 1, xã 2, huyện 3, tỉnh Hậu Giang.

2. Bị đơn: Ông Lee Byoung Y.

Địa chỉ: #... N-dong, B-si, Chungcheongnam-do, Korea (Hàn Quốc).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14/11/2017, các lời khai có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị N trình bày: Chị và anh Lee Byoung Y quen biết và tự nguyện tiến tới hôn nhân. Anh chị có đăng ký kết hôn tại Tổng Lãnh sự quán Hàn Quốc tại thành phố Hồ Chí Minh và được ghivào sổ hộ tịch việc kết hôn tại Sở Tư pháp tỉnh Hậu Giang số 226, ngày 25/5/2011.

Sau khi kết hôn, chị Nguyễn Thị N theo anh Lee Byoung Y về Hàn Quốc sinh sống. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng về quan điểm sống, tính tình và khác biệt về văn hóa. Mâu thuẫn diễn ra ngày càng trầm trọng nên vào ngày 27/9/2013 chị N đã về Việt Nam và vợ chồng đã sống ly thân với nhau kể từ đó cho đến nay. Sau khi chị N về Việt Nam thì chị và anh Lee Byoung Y đã mất liên lạc và không còn qua lại với nhau. Xét thấy tình cảm vợ chồng đã không còn, nên chị Nguyễn Thị N yêu cầu được ly hôn với anh Lee Byoung Y.

Trong thời gian chung sống, vợ chồng chị không có con chung, tài sản chung và nợ chung cũng không có nên không yêu cầu giải quyết.

Đối với bị đơn anh Lee Byoung Y từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành thực hiện ủy thác tư pháp cho Tòa án tối cao Hàn Quốc tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự và anh Lee Byoung Y đã nhận được văn bản tố tụng của Tòa án nhưng anh Lee Byoung Y vẫn vắng mặt và không có ý kiến phản hồi gì đối với yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị N.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang phát biểu quan điểm, về việc thụ lý giải quyết vụ án của Tòa án là có cơ sở, đúng thẩm quyền, trong quá trình giải quyết Tòa án và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn với anh Lee Byoung Y theo quy định pháp luật; Về con chung, tài sản chung, nợ chung không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bị đơn anh Lee Byoung Y từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành thực hiện ủy thác tư pháp cho Tòa án tối cao Hàn Quốc tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Ngày 24/9/2018 Tòa án nhận được thông báo kết quả thực hiện ủy thác tư pháp của Cục Quản lý Tòa án quốc gia, Đại Hàn Dân Quốc về việc đã tống đạt được cho đương sự vào ngày 24/7/2018. Tuy nhiên, anh Lee Byoung Y vẫn vắng mặt và không có ý kiến phản hồi gì. Do đó, căn cứ điểm a khoản 5 Điều 477 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xét xử vắng mặt anh Lee Byoung Y.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh Lee Byoung Y tự nguyện tiến tới hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Tổng Lãnh sự quán Hàn Quốc tại thành phố Hồ Chí Minh và được ghi vào sổ hộ tịch việc kết hôn tại Sở Tư pháp tỉnh Hậu Giang số 226, ngày 25/5/2011, nên quan hệ hôn nhân giữa anh, chị là hợp pháp. Sau khi kết hôn anh, chị về Hàn Quốc sinh sống hạnh phúc được thời gian đầu thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do tính tính không phù hợp, khác biệt về văn hóa dẫn đến bất đồng quan điểm và chị N đã trở về Việt Nam từ năm 2013 nên ly thân cho đến nay. Sau khi chị Nguyễn Thị N về Việt Nam thì anh, chị đã cắt đứt mọi liên lạc và không qua lại; tình cảm vợ chồng không còn, không quan tâm, chăm sóc và sống cùng nhau. Hội đồng xét xử xét thấy, hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị N và anh Lee Byoung Y đã có mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng đã không còn thương yêu, quan tâm và chăm sóc cho nhau; trong suốt khoảng thời gian ly thân hai bên cũng không liên lạc, thăm hỏi qua lại, nên hôn nhân giữa anh, chị không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân đã không đạt. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị N.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị N khai giữa chị và anh Lee Byoung Y không có con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị N khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí, lệ phí ủy thác tư pháp: Chị Nguyễn Thị N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 37, khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 153, Điều 154, Điều 474, điểm a khoản 5 Điều 477, Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Thông tư số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N được ly hôn với anh Lee Byoung Y.

2. Về con chung: Chị N khai không có, nên không xem xét.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không ai yêu cầu, nên không xem xét.

4. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị N phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), chuyển tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0014397 ngày 20 tháng 11 năm 2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hậu Giang thành án phí dân sự sơ thẩm.

5. Lệ phí ủy thác tư pháp; chi phí ủy thác tư pháp (Bao gồm ủy thác tống đạt bản án): Chị Nguyễn Thị N phải nộp 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) lệ phí ủy thác tư pháp, chị N được khấu trừ vào tiền tạm ứng lệ phí ủy thác tư pháp đã nộp 200.000đ theo Biên lai thu tiền số 0003592 ngày 25 tháng 5 năm 2018 và khấu trừ 200.000đ vào tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp đã nộp 3.000.000đ theo Biên lai thu tiền số 0003593 ngày 25 tháng 5 năm 2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hậu Giang, chị Nguyễn Thị N được nhận lại 2.800.000đ (Hai triệu tám trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0003593 ngày 25 tháng 5 năm 2018, của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hậu Giang.

Chị Nguyễn Thị N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Lee Byoung Y có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
  • Tên bản án:
    Bản án 47/2018/HNGĐ-ST ngày 10/10/2018 về xin ly hôn
  • Số hiệu:
    47/2018/HNGĐ-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    10/10/2018
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2018/HNGĐ-ST ngày 10/10/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:47/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về